Blog của cựu học sinh trường Nữ Trung Học Qui Nhơn

Về Làng

Ngày còn nhỏ, có một bài thơ học thuộc lòng mà tôi rất thích:
” Kỳ nghỉ hè, ta về quê. Nhà ta ở, mé bờ đê.
Ở nhà có, mẹ cha ta. Ông và bà, quý ta quá!…”
Trong đầu óc bé bỏng của tôi lúc đó, “quê” là một nơi có những cánh đồng lúa chín vàng, có chú mục đồng vắt vẻo trên lưng trâu thổi sáo, đàn vịt lội ao, có cánh diều no gió, lũy tre làng… là những gì tôi đã biết qua sách vở mà không biết bao giờ có thể được nhìn thấy tận mắt. Ngày đó mùa hè được nghỉ đến 3 tháng, nghe đến mùa hè là đứa học trò nào cũng háo hức vì được nghỉ học, được tha hồ đi chơi. Chú bé trong bài thơ có lẽ đang đi học xa nhà nên mới có tâm trạng vui sướng hớn hở như thế, còn tôi đang ở cùng cả cha mẹ lẫn ông bà thì quê ở đâu mà về? Mẹ bảo “Quê của mẹ ở làng Mỹ Á, Vinh Hiền, rồi sẽ có ngày con được về quê”.

Năm tôi thi đậu vào lớp đệ thất trường Đồng Khánh, cha tôi thưởng cho tôi được về quê với bà ngoại. Không thể tả nổi niềm vui của tôi, đêm trước khi đi tôi đã thao thức không ngủ được. Cứ nghĩ, không biết quê mình ra sao, có giống như bài học thuộc lòng đã mô tả, là “nhà ta ở, mé bờ đê” không? Ngày lên đường đã đến, buổi sáng 2 bà cháu đi xe ra bến sông, rồi đi đò, qua cầu, nhiều lần như vậy rất gian nan mới về đến làng Mỹ Á, là nơi bà ngoại theo ông về làm dâu, làm vợ, và mẹ tôi đã sinh ra ở đó. Làng tôi cũng có bờ đê, những cánh đồng cò bay thẳng cánh, có lũy tre xanh, ngôi đình, cây đa, bến nước … Và hơn thế nữa là đầm phá, là biển. Đầm phá có nhiều tôm cá, thuyền câu. Biển có bãi cát trắng dài hoang sơ rất đẹp. Một ông anh họ dẫn tôi leo lên núi đá nhìn ra biển, ở đó tôi ngồi nhìn quang cảnh thiên nhiên đẹp như tranh và sinh hoạt của dân làng chài không chớp mắt, vì sống ở thành phố tôi chưa được thấy bao giờ.


Biển Vinh Hiền, Thừa Thiên – Huế

Đó là cảnh làng chài đang rộn ràng vào những buổi sớm mai khi ghe đánh cá từ ngoài khơi xa về. Những người đàn bà và cả trẻ con xúm lại gỡ lưới lấy mực cá vào rổ. Người nhóm lửa nướng ngay con cá tươi, mùi khói và mùi thơm của cá nướng thoảng tới từ xa. Cái xóm nhỏ rộn ràng tiếng hú gọi dân làng ra lấy cá, tiếng nói cười lẫn trong tiếng sóng biển vỗ. Có lẽ vì sống gần biển phải nói át tiếng sóng vỗ nên những người bà con nhà tôi và người dân làng biển ở đây “ăn to nói lớn” như thế, hình như chỉ có bà ngoại và mẹ tôi là ăn nói nhỏ nhẹ dịu dàng thôi!

Những ngày sau đó, bà ngoại dẫn tôi đi qua làng của bà, làng Nam Trường. Từ làng ông ngoại đi qua làng bà ngoại khá xa. Ngày xưa khi đi làm dâu xa nhà như thế này, tôi chắc là bà thường ra sau hè có bụi chuối mà khóc. “Chiều chiều lại nhớ chiều chiều, Trông về quê mẹ chín chiều ruột đau”. Nhất là từ ngày ông bỏ nhà ra đi vào Nam, chỉ còn mình bà ở lại làm lụng vất vả nuôi đàn con thơ dại chờ ngày ông trở về.

Không có xe đi, bà đã dẫn tôi đi qua những cái “trạng” cát trắng. Đường xa vì đôi chân tôi bé nhỏ mà bước trên cát lún thật khó đi nên lại càng thấy xa. Nắng trưa hè hắt xuống cát càng thêm bỏng rát đôi chân. Mà rồi cũng đến nơi. Bà ngoại tôi còn có một người chị, mệ Khiêm. Tôi không nhớ bà sống với ai trong ngôi nhà nhỏ đó, chỉ có một điều tôi thấy rất sợ là vì tôi đã nhìn thấy một cái quan tài để sẵn trong nhà. Bà ngoại tôi nói cái đó để dành cho mệ Khiêm. Ở nhà quê, người già thường chuẩn bị cho mình cái quan tài, sợ không có thì phải quấn chiếu mà chôn khi chết.

Buổi chiều tôi được ăn cơm với món cá bống thệ kho keo và món rau muống xào rất ngon mà tôi nhớ mãi đến bây giờ. Rau muống xào mà ngon nhớ mãi, nghe cũng lạ phải không? Có lẽ do lúc đó tôi đói bụng, hay vì rau muống nhà quê ngon hơn rau muống thành phố, tôi không biết nữa!

Đêm hôm ấy trời sáng trăng. Tôi ngồi ngoài sân hóng mát. Cái sân ban ngày phơi thóc vàng ươm, đêm khuya thanh vắng lại có ánh trăng ngập tràn. Nhà mệ Khiêm có vườn cau, hương hoa cau thoang thoảng, lá cau trong gió xào xạc, xào xạc … cũng làm tôi nhớ mãi đến sau này.

Chuyến về làng ngày ấy trở thành một trong những kỷ niệm đẹp nhất mà tôi từng có trong đời. Qua năm sau, trước Tết Mậu Thân, gia đình tôi chuyển vào Qui Nhơn. Xa Huế, tôi không còn dịp về quê nữa.


Đường về làng tôi

Cho đến ngày đầu tháng ba năm nay, đã 47 năm trôi qua, trong chuyến đi về Huế lần này, hai chị em tôi đã hẹn về làng mẹ với một đôi vợ chồng người bà con vừa từ Mỹ về quê làm đám giỗ cho cha của họ. Đây là một dịp tốt vì sẽ có người dẫn đường vì đã lâu lắm rồi chị em chúng tôi nhiều lần muốn về mà không biết đường, thêm vào đó đa số bà con bên mẹ tôi đều đã bỏ làng ra đi, nhất là những người trẻ tuổi, nay ở làng không còn ai mà chỉ còn lại người già thì có muốn về thăm cũng khó.
Thời tiết năm nay trên thế giới thật khắc nghiệt, trong nước cũng có phần ảnh hưởng, mùa lạnh kéo dài hơn mọi năm, miền Trung rét đậm, miền Bắc có nơi cũng có tuyết rơi. Tôi đã nghĩ chắc Huế sẽ lạnh lắm, nhưng khi ra đến Huế thì thật may, trời lại mát mẻ và không có mưa.

Đến Huế, nghỉ một ngày, qua hôm sau cùng một số bạn bè, chúng tôi thuê xe đi thẳng. Tình cờ gặp được một người cháu họ là tài xế taxi Mai Linh biết đường về làng nên thật yên tâm. Từ Huế về Truồi, đường sá bây giờ rất đẹp. Quãng đường qua cầu qua sông phải đi nhiều chặng khó khăn ngày xưa nay rút ngắn chỉ một con đường. Khi qua cầu Trường Hà, phía trái sẽ rẽ về hướng Thuận An, còn chúng tôi đi về bên phải. Sinh, người cháu họ hỏi chúng tôi có muốn ghé “thành phố lăng” hay còn gọi là “thành phố ma” hay không. Vì cùng trên một hướng đi, chúng tôi đồng ý ghé qua, phần tò mò muốn xem thử vì từ lâu đã nghe đồn về “thành phố” này. Đó là làng An Bằng, thuộc xã Vinh An, huyện Phú Vang. Từ con đường nhỏ dẫn vào đã thấy nhấp nhô hai bên đường những ngôi mộ lộng lẫy tráng lệ không kém lăng vua chúa. Cũng lối trang trí gắn gốm, đắp nổi rồng chầu, hàng hà sa số lăng mộ có đến gần 3.000 cái trên tổng thể diện tích 40 hecta là một con số quá lớn và quá tốn kém tiền bạc. Nghe nói mỗi lăng mộ như vậy tiền xây dựng từ khoảng vài trăm triệu đến vài tỷ đồng. 450 năm trước, do những người từ Thanh Hóa vào đây lập nghiệp mà ngôi làng được hình thành. Dân làng làm nghề đánh cá biển là chính. Sau tháng 4 – 1975, những người dân làng trẻ tuổi bỏ làng ra đi khá nhiều. Qua xứ người làm ăn khá giả, họ trở về xây dựng những lăng mộ tráng lệ như thế này cho ông bà cha mẹ những người đã khuất.

Chúng tôi cùng có chung một cảm giác hơi bàng hoàng khi rời “thành phố lăng” vì không thể tưởng tượng nổi ở một làng quê xa xôi như thế này lại có quá nhiều xây dựng tốn kém cho người đã mất như thế. Trên đường về làng, Sinh dừng lại ở một nghĩa trang nhỏ, chỉ cho chúng tôi xem một “lăng” đã xây dành sẵn cho hai vợ chồng một người anh họ của tôi, Sinh nói cái “lăng” này ít tiền hơn, tuy không bằng những lăng mộ ở An Bằng nhưng trông lộng lẫy không kém!

Con đường chạy qua hàng chục cây số đồng lúa xanh tươi có rất nhiều hoa dại mọc ven đường, qua nhiều sông nước thuộc hệ đầm phá Tam Giang – Cầu Hai. Cảnh tuyệt đẹp như lạc vào thiên thai. Lúc này đây câu ca dao xưa lại văng vẳng bên tai tôi:
“Đường vô xứ Huế quanh quanh,
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ.
Thương em anh cũng muốn vô,
Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang”….


Phá Tam Giang – Đầm Cầu Hai nhìn từ tháp Điều Ngự trên đỉnh núi chùa Túy Vân.


Chiều trên phá Tam Giang

Vào thời xa xưa, phá Tam Giang cùng với cửa biển Thuận An và sông Hương là thủy lộ chính lên kinh thành Huế nên ai muốn thượng kinh đều phải vượt phá, thời bấy giờ hai bên bờ phá um tùm lau sậy là nơi có sào huyệt của một nhóm cướp khét tiếng nên “thương em” mà anh không dám vào là vậy. Nơi đây là một cảnh đẹp hết sức ngoạn mục. Từ đỉnh núi chùa cổ Túy Vân nhìn xuống ta sẽ thấy hàng trăm chiếc đò nằm lặng lờ soi bóng xuống dòng nước lặng yên như một bức tranh phong cảnh tuyệt đẹp. Hàng năm có thể khai thác trên vùng đầm phá này hàng nghìn tấn tôm cá hải sản. Đặc biệt “tôm sóc” ở đây rất ngon và ngọt, nhiều quán bánh bèo ở Huế chỉ dùng loại tôm này làm nhân cho bánh. Và lá gói bánh nậm bánh bột lọc là lá dong chứ không phải là lá chuối càng tăng thêm hương vị thơm ngon.

Vào đến làng, trước ngõ chợ làng tôi đã thấy khá đông người tụ tập. Có nhiều ông già mặc áo dài, đội khăn đóng màu đen bên cạnh những người đàn ông mặc âu phục, thắt cà vạt hẳn hoi. Ngôi nhà nơi tổ chức đám giỗ ở gần đó. Ông anh họ của tôi – năm nay 82 tuổi, cũng áo thụng đen đội khăn đóng, là người được dân làng bầu làm “trưởng làng” do “ăn nói khéo” và là người có uy tín với dân làng, lo việc quan, hôn, tang, tế trong làng. Khi gia đình cúng xong, họ bưng một mâm trầu cau dâng cho ông trưởng làng. Trưởng làng nhận mâm trầu cau rồi là bữa tiệc bắt đầu.


Tụ tập đi ăn giỗ ở làng


Trước chợ làng cùng với ông trưởng làng

Có khoảng 15 bàn ăn ở đây, mỗi bàn 10 người. Và toàn là đàn ông đi ăn cỗ. Có vài người đàn bà, nhưng không nhiều, có lẽ vì chồng đã mất nên các bà đi thay thế. Bên hàng xóm, lấp ló vài người đàn bà từ xó bếp. Trong nhà ngay cả con dâu cũng không được phép ngồi ăn với làng mà phải ăn sau. Tất cả phụ nữ đều ở phía sau hè, tay bồng tay bế con nhỏ hoặc đang cho vịt gà ăn.
Tôi bỗng nhớ lại ngày xưa ấy lúc về làng cùng với ngoại tôi cũng đã được dự một đám cúng giỗ ông cố ngoại tổ chức ngay nhà thờ họ. Tiếc là tôi không thể nhớ nhiều, chỉ thấp thoáng nhớ rất đông người đến dự. Người ta đã mổ heo làm thịt ngay lúc đó, rồi sau khi luộc chín, vừa dọn ăn, mỗi người còn được lãnh một phần xôi thịt đem về.

Ông anh họ của tôi, ngày xưa từng làm xã trưởng ngôi làng này. Ngày ấy đơn vị hành chính làng xã là một làng một xã, bây giờ ở nơi đây một xã có 4 thôn, mỗi thôn chừng vài ba chục hộ dân. 10 năm trước đây, con cái đã đón 2 ông bà qua Mỹ sống. Được vài năm, ông than buồn nhớ quê nên đòi về, các con cho ông bà về, xây một cái nhà thật to, làm sẵn luôn “lăng” mộ, lót cả đường đi vào nhà thờ họ. Rồi ông lại được dân làng bầu làm “trưởng làng”. Ông chắc lưỡi nói “Làm cho vui như ri chớ cực lắm, không có ăn lương, mà nhà ai có chuyện gì ghen tuông đêm hôm cũng gọi, kiện cáo cũng kêu cũng réo, cúng kiếng cưới xin tang ma đều phải có mặt!”

Ăn giỗ xong, chúng tôi theo ông anh họ đi thăm một vài nhà bà con, các mệ các o còn lại trong làng. Họ ôm chầm lấy chị em tôi, có người khóc ròng khi nhắc đến ngoại, mẹ tôi. Chúng tôi cũng ghé những ngôi chùa làng mà mẹ tôi ngày trước thường lui tới. Tôi đã rất vui và cười thật nhiều hôm ấy. Sung sướng biết bao khi được sống trong cảnh làng quê lần này, dù chỉ vài tiếng đồng hồ! Rồi tôi ra đứng ngoài cánh đồng mênh mông lộng gió, hít thở khí trời trong sạch. Ngôi làng có vẻ khang trang hơn trước nhiều. Nhà nào cũng có vườn rộng, hoặc có ao nuôi cá. Tôi hỏi ông anh về giá đất ở đây. Ông bảo chỉ sợ không ai chịu ở, chứ đất ở đây … cho không!


Ngôi trường làng


Đến trường

Một ngôi trường làng tôi gặp trên đường là trường tiểu học của xã, khá lớn và tử tế. Các em học sinh túa ra từ các cánh đồng, nơi xa xa là những xóm nhỏ. Các em hồn nhiên nhảy qua những con mương để đến trường, hay đèo nhau trên chiếc xe đạp từ lùm tre phóng ra. Cách đó không xa là biển Vinh Hiền, một bãi biển còn hoang sơ rất đẹp với những chiếc thuyền gỗ có thiết kế là lạ đẹp gần như những chiếc thuyền cổ Ai Cập nằm trên biển chờ giờ ra khơi. Qua bên cửa Tư Hiền còn có chùa cổ Túy Vân thành lập từ cuối thế kỷ 17 cảnh đẹp như cõi tiên, nay vẫn còn dấu bia đá khắc đề thơ của Vua Thiệu Trị. Và tôi đã nhớ ra rồi, ngày ấy nơi này, tôi đã leo lên những bậc tam cấp đá nhìn xuống biển. Vẫn còn cảnh cũ ngày xưa nhưng ông anh họ người dẫn tôi ra biển đã mất vì bom đạn vào những ngày tháng tư 1975. Bà Khiêm với chiếc quan tài để sẵn trong nhà cũng không còn. Rồi các bà cô bên ông ngoại, bà ngoại tôi, cả mẹ tôi nữa cũng đã đi xa lắm rồi.

Tôi bước đi trên bờ ruộng mà lòng cứ ngẩn ngơ giữa hiện tại và nỗi nhớ về ngày xa xưa ấy. Nhớ bước chân cùng bà ngoại đi qua những cái “trạng” cát trắng. Nhớ ánh trăng chiếu sáng sân phơi thóc nhà mệ Khiêm, mùi hương hoa cau thoang thoảng, tiếng lá xào xạc và cánh chim vỗ bay vút vào trong đêm xa xăm. Tôi thấy tôi đang đi tìm lại tuổi thơ tôi. Đâu đó là dấu chân, là tình yêu của ngoại, của mẹ, của những người bà con thân thuộc luôn mở rộng vòng tay đón tôi về. Có một nơi chốn để về, như đứa trẻ con chỉ thấy ấm áp khi đang ở trong nôi, trong vòng tay yêu thương của mẹ hiền. Và dường như chưa bao giờ tôi cảm thấy được niềm hạnh phúc tỏa lan trong lòng tôi đầy xúc động đến như thế…

NGUYỄN DIỆU TÂM
Tháng 3 – 2014

12 BÌNH LUẬN

  1. RE: Về Làng
    Cảm ơn Diệu Tâm với một đoản văn nhẹ nhàng, cảm động về quê ngoại. Có lẽ mỗi người chúng mình ở tuổi “hườm hườm” cũng nên có một lần về thăm lại nơi chôn nhau cắt rún.
    À, DT ơi, cái quan tài để sãn đó gọi là “Thọ đường” đó !
    Những tấm hình cũng rất đẹp ! Thân,
    HML

    • RE: Về Làng
      Anh Lệ mến. Ai mà không muốn ít nhất một lần trong đời về thăm lại nơi chôn nhau cắt rún. Nhưng có khi không dễ về. Ngay cả như mẹ DT, lúc còn trẻ thì bà hay về, nhưng lúc già rồi bệnh, bà cứ mơ ước mãi, có lúc ngủ dậy bà ứa nước mắt nói nhớ quá … cái giếng. Lần này được về quê mẹ, vẫn còn mong được một lần về thăm quê cha. Còn nơi “chôn nhau cắt rún”, lần trước khi anh Lệ đi Phan Thiết DT có nói mời anh ghé nhà chơi đó, là cái nhà hàng xóm của bà Mộng Cầm. Đúng là một cảnh … bốn quê!
      Cái quan tài để sẵn … “Thọ đường”, nhưng nhìn thấy sợ lắm anh Lệ à. Cảm ơn anh đã đọc.

  2. RE: Về Làng
    Bài viết làm mình nhớ bà ngoại quá!
    Bà ngoại mình rời Huế theo chồng đi khắp nơi, rất ít có dịp về thăm lại quê cũ.
    Mình cũng có 1 lần được mẹ dẫn về làng thăm chị em của ngoại. Nay các mệ đều đã mất. Ôi, các bà vợ ngày xưa ấy! chắc là nhớ quê da diết Tâm nhỉ!

    • RE: Về Làng
      Mỹ mến, hãy nhớ ngoại thật nhiều và viết về ngoại, bạn sẽ thấy thanh thản hơn đó!
      Sau khi vào Qui Nhơn, bà ngoại mình cũng không còn dịp nào để về quê thăm nữa vì lúc đó bà đã già, nếu đi phải có người đi cùng. Nhưng ngày trước từ Qui Nhơn ra Huế cũng xa, đi lại không thuận tiện như bây giờ, nên không dễ đi. Nhắc lại mình rất nhớ ngoại, tội nghiệp lắm, cả một đời bà hy sinh cho chồng, con, cả cháu nữa. Tụi mình bây giờ sướng hơn thời các cụ nhiều lắm, phải không Mỹ?

  3. RE: Về Làng
    DT có lối viết nhẩn nha, như vừa đi vừa kể chuyện.

    Phải chăng yếu tố…”nghề nghiệp” như đang ẩn hiện, đậm nhạt trong văn ? 🙂 Vì bài viết giống bức họa đồng quê với rất nhiều hình ảnh và màu sắc. 🙂

    • RE: Về Làng
      Anh Bạn GSG thân mến, có lẽ đúng như anh nhận xét, DT vẫn hay áp dụng cách “vừa đi vừa kể chuyện” vì như thế bạn bè sẽ hình dung ra được bước chân mình đã đi đến đâu. Nếu anh muốn ghé thăm làng của mẹ DT một ngày nào đó, anh có thể không cần tìm bản đồ trên Google mà chỉ cần … đọc lại những gì DT viết ở đây. Dễ ợt mà, qua cầu Trường Hà, rẽ trái là đi Thuận An, rẽ phải là đường về Vinh Hiền, quẹo vô thăm làng An Bằng một chút cho thấy cả làng đã báo hiếu cho ông bà cha mẹ bằng những lăng mộ nguy nga chỉ thua các lăng Vua nhà Nguyễn chứ còn hơn lăng các quan!
      Chỉ đường như vậy là quá rõ rồi phải không anh Hai? 😆 Cảm ơn anh đã đọc.

      • RE: Về Làng
        Vài hàng xin thông tin lại Diệu Tâm:

        Ở làng chài, đàn ông chủ yếu là ngư phủ. “Hồn treo cột buồm” mà biết “báo hiếu” như vậy là điều đáng quý.

        Nhưng theo nhiều người giải thích, sở dĩ có cả “thành phố mộ nguy nga” vì trước đây, đàn ông ở đó mỗi người đều có sở thích nuôi …gà trống. 🙂

        Còn về các phần mộ của giới quan lại hồi trước còn đến ngày nay đa phần đều đơn sơ, khiêm tốn. BGSG thấy điều đó tốt chứ sao vì đã thể hiện khá rõ nét các cụ lúc sinh thời, tuy quyền cao chức trọng nhưng đa phần đều sống thanh bạch, trong sáng, giản dị. Đó là tố chất cần có của người làm quan; ở mọi thời.

        P/S: “Lăng” là từ dùng chỉ nơi an táng vua chúa. Ngoài biệt lệ/biệt ngữ này, nơi chôn người chết đều gọi chung là “Mộ”. 8)

        • Thành phố “Lăng”
          Anh Bạn Già SG thân mến, cảm ơn anh đã cho biết đàn ông ở làng An Bằng thích … nuôi gà trống 🙂
          DT nghe người địa phương gọi tên là thành phố “Lăng”( hay thành phố “Ma”) không nghe gọi “thành phố mộ”. Nhưng DT nghĩ có thể người nói ra đầu tiên thì biết chữ “Lăng” ở đây nằm trong ngoặc kép vì Lăng ( không có ngoặc kép ) chỉ dùng để chỉ nơi an táng Vua chúa.
          Có 1 bài trong trang phatgiao.org.vn mời các bạn đọc thêm cho biết:
          http://phatgiao.org.vn/doi-song/201312/Cam-nhan-khi-den-tham-thanh-pho-lang-o-Hue-12894/

  4. RE: Về Làng
    Một bài viết với thú vị với những ky ức quê ngoại và hình ảnh PTG thật đẹp, khiến mình chợt nhớ đến bài hát “chiều trên phá Tam Giang”
    Giờ này thành phố chợt bùng lên
    em giòng lệ vẫn chảy tuôn
    nghĩ đến một điều em không rõ
    nghĩ đến một nguoi đi giữa chiến tranh
    Lại nghĩ tới anh…nghĩ tới anh

    • Chiều trên phá Tam Giang
      Hx thân mến. Cảm ơn Hx đã đọc và nhắc đến bài hát. Mình đã không biết bài hát “Chiều trên phá Tam Giang” trước khi các bạn ở hải ngoại gửi cho mình link bài hát này ( Thơ Tô Thùy Yên, nhạc Trần Thiện Thanh ). Bài thơ thật buồn … Và ngắm cảnh phá Tam Giang trong chiều sương đang dần xuống cũng thật đẹp và buồn.

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây

Bài Cùng tác Giả