Đêm 18.11.2011, trời vừa dứt cơn mưa, tôi lấy xe chạy đến Bảo tàng Thành phố vì đã hẹn cùng Sơn đi dự khai mạc triển lãm 4 họa sĩ Thái Lan, trong đó có Direk Kingnox, anh chàng họa sĩ trẻ tuổi vẽ màu nước rất đẹp mà gần một tháng trước triển lãm trên các trang mạng rộn ràng về một họa sĩ Thái Lan đã vẽ phong cảnh Việt Nam đẹp hơn cả họa sĩ Việt Nam! Direk có một trang trên Face Book, nhờ vậy mà tôi được biết đến cuộc triển lãm này để chuyển thông tin cho Sơn. Sơn ngạc nhiên vì sao không nhận được thư mời từ Hội Mỹ Thuật TP và vì thế rất nhiều họa sĩ đã không biết đến thông tin cuộc triển lãm này để đến trong ngày khai mạc. Chị Cao, Giám đốc Bảo tàng cho biết lý do, chỉ vì giấy phép nhận được quá muộn nên không kịp thông báo rộng rãi hơn. Thật tiếc, vì không có đông đảo họa sĩ trong giới mỹ thuật và người hâm mộ đến xem một cuộc triển lãm về kiến trúc cổ xưa và nay của Việt Nam do các họa sĩ Thái Lan lần đầu tiên đến Việt Nam và vẽ về Việt Nam. Từ Văn miếu Hà nội, Đền Ngọc Sơn và cầu Thê Húc, các lăng tẩm triều Nguyễn tại Huế đến bảo tàng lịch sử, bảo tàng Mỹ thuật tại Tp HCM. Từ hình ảnh con rồng; hoa văn đình, chùa, lăng tẩm; đến những sinh hoạt đường phố ban ngày lẫn về đêm đầy màu sắc đã được các họa sĩ thể hiện tuyệt vời. Tuy nhiên, tôi không cùng quan điểm với đa số “fan” trên mạng, rằng Direk đã vẽ về Việt Nam đẹp hơn các họa sĩ Việt Nam. Làm sao có ai chỉ đến một đất nước lần đầu tiên lại có thể có được một tấm lòng, một trái tim như người bản xứ đã sinh ra, lớn lên, sống chết với quê cha đất tổ. Theo tôi, trong bất kỳ sáng tác nào, ngoài tài năng, kỹ thuật, còn cần phải có một cái “thần” hay linh hồn trong tác phẩm. Cũng giống như nhiều ký họa của họa sĩ Pháp về Việt Nam, dù rất đẹp nhưng ta sẽ thấy rất “Tây”. Dù vậy, buổi triển lãm đã làm tôi bâng khuâng khi nhớ lại thật nhiều phòng tranh ngày nào, nơi tôi từng làm việc, bây giờ đã trở thành xa xăm như trong một giấc mơ đẹp của đời tôi.
Vào những năm 90, Sài gòn chưa có nhiều phòng tranh như bây giờ. Đầu năm 1992 có một phòng tranh đã ra đời và nhanh chóng nhận được sự ủng hộ từ nhiều họa sĩ của thành phố. Vào thời điểm đó, các sinh hoạt, triển lãm mỹ thuật khá hiếm hoi vì cuộc sống còn nhiều khó khăn và thiếu những nhà tài trợ. Người họa sĩ vẽ và tự bán tranh không dễ nếu không có những Gallery đứng ra làm trung gian mua bán. Ngoài một số họa sĩ nổi tiếng đang được nhiều Gallery nước ngoài săn đuổi, có người được ký hợp đồng tranh cung cấp thường xuyên và độc quyền, đa số sống vất vả, nhiều người bỏ nghề, hoặc tạm xa nghề để làm những công việc khác mà sống.
Phòng tranh LS ra đời đáp ứng được một số nhu cầu. Họa sĩ có nơi gửi tranh, bán tranh, công ty có thêm một cửa hàng đặc biệt bên cạnh cửa hàng sơn mài chính nhằm phục vụ cho khách du lịch, khách yêu tranh. Ông sếp công ty tôi trở thành một “mạnh thường quân” của giới họa sĩ vào thời gian đó.Với không gian rộng, trang trí đẹp mắt, trưng bày nhiều tác phẩm giá trị của nhiều họa sĩ tên tuổi, thời gian đầu phòng tranh rất thu hút khách hàng.
Phòng tranh này thành lập đúng vào thời điểm lượng khách du lịch bắt đầu vào Việt Nam, nhiều khu công nghiệp, công ty đầu tư nước ngoài xuất hiện, cuộc sống dễ thở hơn nên nhu cầu mua tranh ảnh trang trí cũng gia tăng. Tuy nhiên, sau gần 2 năm hoạt động, phòng tranh bị xem như một kinh doanh thất bại. Số lượng tranh được những người phụ trách trước đây mua quá nhiều, thiếu sự lựa chọn, có bức đẹp có bức không. Gallery lại không có người chuyên trách, cứ mỗi ngày có một nhân viên từ cửa hàng sơn mài được đưa qua, tranh bán được thì bán, không thì thôi, doanh thu yếu, dần dần phòng tranh đâm ra vắng vẻ thiếu sinh khí, khách hàng không muốn bước vào. Trong thời gian ấy, tôi đang làm việc ở ban Vẽ của công ty. Hàng hợp đồng xuất đi Nhật bản nhiều quá, tôi và các bạn đồng nghiệp thiếu điều ăn ngủ luôn ở xưởng vẽ. Một buổi sáng, bất ngờ sếp cho gọi tôi lên nhận quyết định qua làm việc ở phòng tranh. Quá bàng hoàng vì với tôi đây là công việc không dễ dàng. Tuy nhiên vì sếp cho rằng tôi có kiến thức về mỹ thuật, hy vọng khi có tôi quản lý, việc bán tranh sẽ đạt hiệu quả hơn. Cuối cùng tôi đã không còn sự lựa chọn nào khác đành phải chịu thuyên chuyển công tác. Tôi đã trải qua nhiều ngày lo lắng, vì thật tình thì tôi chưa hề có kinh nghiệm về kinh doanh, về công việc quản lý một phòng tranh. Ở Gallery, tôi lại luôn nhớ về những ngày làm việc thoải mái vui vẻ với đồng nghiệp trên dãy lầu của ban Vẽ.
Những ngày đầu tiên ngồi một mình trong tòa nhà rộng thênh thang chứa đầy tranh, tôi không biết mình phải làm gì với hàng trăm bức tranh nhiều thể loại từ bột màu, màu nước, sơn dầu, sơn mài, lụa, khắc gỗ v.v.. nằm ngổn ngang trong không gian rộng lớn đó. Tôi có cảm giác như đang bị lưu đày một mình trên đảo hoang, giữa một khu rừng rậm không tìm được lối thoát mà quanh tôi là cả một kho tàng quý giá, nhưng nếu không biết sử dụng và phát triển cái kho tàng quý giá đó, thì mọi thứ đều trở thành vô nghĩa. Tôi bắt đầu đi xem từng tấm tranh một, dò theo danh mục để nhận tên tác giả, tựa tranh, nắm được thể loại. Tôi ngồi hàng giờ nhìn những bức tranh mà người ta đã treo trước khi tôi đến nơi này, tổng thể là một sự sắp xếp lộn xộn thiếu mỹ thuật, có bức treo trên khung kính cửa sổ, có bức nằm dưới đất, tranh đẹp và giá trị treo cạnh tranh “bờ hồ” v.v… Trước đó khoảng nửa năm, là thời gian tôi đi du lịch và đã ở Úc 6 tháng, phần lớn thời gian tôi thường đi thăm các bảo tàng, Art gallery, các cửa hàng bán tranh, chỉ vì tôi thích. Ở Úc có rất nhiều gallery, từ lớn đến nhỏ. Phong cảnh thiên nhiên ở Úc phong phú nên cũng không lạ khi họa sĩ Úc vẽ phong cảnh rất đẹp. Những rừng cây chuyển sắc đủ màu theo mùa. Những bãi biển hoang vắng. Lịch sử Sydney dù chỉ mới xuất hiện từ thế kỷ 18, nhưng đây là lục địa đã có thổ dân định cư từ 45.000 năm trước. Vì vậy được tham quan những bảo tàng ở thủ đô Canberra, các bang New South Wales và Victoria là những giây phút thú vị. Tôi có thể ở đó suốt ngày, mê mẩn với nhiều tranh ảnh, tác phẩm cổ điển giá trị của thế giới, những di vật có niên đại hơn ngàn năm. Có thể là một chiếc rìu đá không còn nguyên vẹn từ thời đồ đá, một cây cung gãy từ thời đồ đồng, mảnh gốm vỡ từ phương Đông xa xôi. Đặc biệt tôi thích những triển lãm về mỹ thuật thổ dân ở Úc. Tôi cũng rất thích đến khu nhà ở của các họa sĩ danh tiếng của Úc mà nhiều ngôi nhà sau khi họ mất đã trở thành bảo tàng.
Dường như những hình ảnh đó bắt đầu xuất hiện trong đầu tôi lúc này đây. Tôi thấy mình cần phải làm một thay đổi cho phòng tranh này. Với một người chưa hề có kinh nghiệm quản lý phòng tranh, tất cả chỉ làm theo cảm tính thì ngay cả việc treo tranh cũng là cái khó đầu tiên. Dù Gallery rộng hơn 1.000 m2 kể cả 2 tầng, nhưng số lượng tranh quá nhiều, chúng tôi phải tìm cách treo nhiều tranh và làm thế nào để bán được tranh, đó mới là vấn đề. Treo tranh lại phải sắp xếp các thể loại bên cạnh nhau, làm thế nào để bức tranh này tôn lên vẻ đẹp của bức bên cạnh, làm cả phòng tranh cùng đẹp lên, để thu hút người mua. Tôi đề nghị với sếp cho tôi thêm một họa sĩ nam, một nhân viên bán hàng nam giỏi tiếng Anh giúp tôi trong việc quản lý. Đề nghị thứ hai là phải sửa lại phòng tranh. Ban đầu sếp cằn nhằn không muốn tốn thêm tiền vì công ty đã đổ nhiều ngân sách vào việc xây dựng Gallery, vào việc khích lệ họa sĩ thành phố tổ chức triển lãm mà có khi để ủng hộ ông đã mua nguyên bộ sưu tập trong các triển lãm đó. Rốt cuộc vì phòng tranh vắng khách, tiêu điều quá nên ông phải chấp nhận đề nghị của tôi, và tôi hứa sẽ cố gắng tiết kiệm nhất trong điều kiện có thể. Nhóm kỹ sư phụ trách phần xây dựng của công ty gặp tôi để trao đổi về việc sửa chữa. Tôi yêu cầu che kín phòng tranh lúc đó đang vây quanh bằng 4 bức tường kính, ánh sáng quá nhiều và loãng, không cần phải đập phá xây lại mà dùng ván ép có dán decal trắng để che chắn, chỉ chừa 4 lối vào. Kế tiếp là ngăn đôi căn phòng ra vì bề ngang quá rộng, sẽ có thêm vách để treo tranh, chỉ cần có đủ khoảng cách từ 2-3 m để người xem thoải mái khi đứng ngắm tranh. Sau cùng là cho tôi một phòng nhỏ trên tầng một để cất bớt những tranh chưa treo vì đã quá đầy ở các mảng tường bên ngoài. Gần 2 tuần sau, việc sửa chữa tổ chức lại Gallery hoàn tất mà chúng tôi không phải tốn nhiều tiền vì tất cả đều được làm bằng ván ép có thể di dời, tháo gỡ bất cứ lúc nào và không làm ảnh hưởng đến kết cấu xây dựng của nó. Phòng tranh trở nên ấm áp hơn khi được gắn thêm đèn chiếu vào tranh, có vẻ phù hợp và đã ra dáng một gallery chuyên nghiệp hơn trước. Tranh được xếp ở kho theo từng tác giả, từng bộ sưu tập sau khi chúng tôi đã lựa chọn những tranh nào sẽ đem ra treo. Đầu tiên, tôi chọn những tranh đẹp và giá cả tương đối hợp lý. Cuối tháng ấy, Gallery đã bán được gần hơn 20 bức tranh giá mỗi bức từ vài trăm đến vài ngàn đô la Mỹ sau nhiều tháng trời im ắng. Ông sếp và cả công ty đều vui mừng. Qua tháng sau, lượng tranh bán gia tăng, rồi tháng sau nữa. Dần dần phòng tranh được nhiều người biết đến. Thời điểm ấy, ngoài lượng khách đến Việt Nam qua con đường du lịch hay công tác, có nhiều khách hàng là người nước ngoài làm việc cho các công ty đầu tư tại Việt Nam, trong đó có những nhà sưu tập tranh rất thường hay đến Gallery vào mỗi chiều cuối tuần. Tôi còn nhớ trong đó có một người Úc, Tổng Giám đốc của một công ty hàng hải quốc tế, hào hoa phong nhã. Lần nào đến Gallery ông cũng rất nhẹ nhàng xem tranh, nói chuyện hàng giờ với tôi về tranh. Tôi ngạc nhiên vì ông hiểu tranh Việt Nam khá rõ, thuộc nhiều tên tuổi họa sĩ. Giáng sinh năm ấy, ông mời tôi cùng một số nhà sưu tập, chủ phòng tranh ở Sài gòn, đến nhà ông dự tiệc trước khi ông về nước sau mấy năm công tác tại Việt Nam, mới biết ông cũng là một nhà sưu tập tranh chuyên nghiệp, rồi sau này biết thêm ông từng làm việc cho hãng đấu giá tranh nổi tiếng Christie. Thời gian ông làm việc ở Việt Nam cũng là lúc ông sưu tập rất nhiều tác phẩm mỹ thuật Việt Nam. Gia đình ông sống trong ngôi biệt thự sang trọng ở Thảo Điền, ban đêm đi vào khu này tưởng như lạc vào giấc mơ với vô số ngôi nhà cổng đèn vàng trang trí lộng lẫy mùa Giáng sinh. Trong nhà ông, từ bức tường rộng, góc cầu thang đến những lối đi nhỏ đều thấm đẫm hồn Việt Nam khi ông treo và trưng bày toàn là tranh, tượng gỗ sơn son thếp vàng của họa sĩ, nghệ nhân miền Bắc. Có cả tượng Phật bằng gỗ, một cái am thờ nhỏ với ngọn đèn đỏ leo lét.
Lùm tre – Tranh sơn mài, Họa sĩ Nguyễn Gia Trí (1938)
Sau thời gian bán được nhiều tranh đẹp và giá cả vừa phải, tôi bắt đầu lo lắng, rồi đây sẽ chỉ còn lại tranh quá đắt tiền và tranh không đẹp, doanh thu sẽ giảm. Đúng như dự đoán, dần dần lượng khách mua thưa hẳn, doanh số bán tranh cũng giảm theo. Đã đến lúc tôi lại đề nghị với sếp một kế hoạch mới, đó là cho Gallery tổ chức triển lãm và mời họa sĩ đem tranh đến ký gửi. Mục đích để phòng tranh luôn có sắc thái tươi mới, thu hút khách hàng vì nhiều chủ đề thay đổi liên tục. Thêm vào đó, phòng tranh cũng có thể bán được những tranh cũ. Sếp lại không đồng ý, do áp lực phải giải quyết bớt lượng tranh đã mua cho Gallery. Thế là tòa nhà to lớn đầy sắc màu ấy trở nên vắng lặng trở lại. Thỉnh thoảng vẫn có khách hàng vào, từ khách du lịch, đến nhà sưu tập, họa sĩ, người yêu tranh v.v. lui tới nhưng doanh số bán ra không mấy hào hứng. Có lần, một nhà sưu tập tranh gốc Việt nổi tiếng ở Singapore ghé đến phòng tranh, tôi còn nhớ ông nói câu: “Bán tranh, khó lắm con ơi!”…
Sau cùng sếp cũng phải đồng ý. Chúng tôi họp liên tục để bàn thảo về những cuộc triển lãm và tranh ký gửi. Mọi người đều hào hứng vì thời điểm ấy Gallery LS vừa rộng lớn, hiện đại, nằm trong khuôn viên có vườn cau, hoa và cây cảnh vây quanh rất đẹp, lại thêm có nguồn khách du lịch dồi dào liên tục vào ra. Các họa sĩ bắt đầu đem tranh đến Gallery gửi bán. Còn chúng tôi thì lên lịch cho những kỳ triển lãm hội họa. Cứ mỗi 10 ngày sẽ có một cuộc triển lãm, chủ đề luôn thay đổi, phòng tranh miễn phí tiền thuê mặt bằng, chịu luôn trách nhiệm về việc tổ chức khai mạc, quảng cáo, thư mời, in ấn tờ bướm v.v.. Vì thế chúng tôi luôn bận rộn. Tôi còn nhớ chỉ sau một thời gian thu nhận, lịch triển lãm trong tay tôi đã kéo dài đến 2 năm sau.
Cuộc triển lãm đầu tiên bắt đầu vào ngày 25/6 đến 5/7/1995. Đó là một cuộc hội ngộ thú vị và rất giá trị giữa 6 họa sĩ kỳ cựu nổi tiếng chuyên về sơn mài của thành phố là Hồ Hữu Thủ, Đào Minh Tri, Nguyễn Lâm, Trần Thanh Lâm, Lê Ngọc Linh và Dương Tuấn Kiệt. Họ sẽ trưng bày tất cả 50 bức tranh sơn mài.
Trừu Tượng – Tranh sơn mài NGUYỄN LÂM
Trước hôm khai mạc một ngày, khi các họa sĩ đem tranh đến để chuẩn bị treo, thì một đoàn doanh nhân Nhật Bản ghé thăm Gallery. Họ sửng sốt trước những bức tranh đến nỗi đồng loạt quyết định mua hơn 1/5 số tranh, tổng cộng 11 bức trong số 50 bức tranh lớn nhỏ sẽ triển lãm . Tôi thì lo lắng vì sợ ngày mai khai mạc triển lãm sẽ thiếu tranh treo. May sao họ đều đồng ý cho chúng tôi mượn trong 10 ngày triển lãm và sẽ xuất hàng qua Nhật sau khi triển lãm bế mạc. Thế là những bức tranh được mua đều được treo lên trang trọng, gắn nơ đỏ cùng danh thiếp của các chủ nhân bức tranh, nghĩa là “Đã bán”.
Buổi sáng khai mạc, khách mời đến đúng giờ và rất đông. Hoa chúc mừng khai mạc tràn ngập phòng tranh. Chúng tôi đã gửi gần 200 thư mời đi các sứ quán, công ty, du lịch, Bảo tàng, Hội Mỹ thuật, trường ĐH Mỹ thuật, khách hàng, họa sĩ và những bạn bè quen biết. Phó Tổng thư ký của Hội Mỹ Thuật TP cho rằng: “Cuộc triển lãm đã tạo ra không gian mới cho tranh sơn mài, nhất là tranh theo trường phái trừu tượng được thể hiện qua chất liệu sơn mài”… Cuộc triển lãm lần đầu đã thành công, tạo nên uy tín và danh tiếng cho Gallery. Và sau đó, trong tạp chí mỹ thuật Asian Art News ở Hồng Kông, phòng tranh chúng tôi tự dưng có được một góc giới thiệu như một điểm đến mới mà không phải trả tiền để quảng cáo.
Cuộc triển lãm thứ hai, với chủ đề Đường về Tây Nguyên của họa sĩ Nguyễn Thanh Sơn từ 8/7 – 17/7/1995. Không khí thật vui, khi các họa sĩ của công ty giúp chúng tôi thiết kế không gian cho phù hợp với sắc thái Tây Nguyên. Nhóm Mai Anh Dũng làm một cây nêu của người dân tộc miền núi trong những ngày lễ hội Đâm trâu, thường được dựng trước nhà rông và dùng để buộc trâu cúng tế thần linh. Sơn liên hệ với bạn bè ở Pleiku kiếm cho vài vò rượu cần, băng cassette âm nhạc Tây Nguyên, bộ quần áo, xà rông dân tộc để mặc trong ngày khai mạc cho vui. Minh Tuấn thì liên hệ in ấn catalogue. Tôi lo viết và gửi thư mời, đi đặt tiệc cho ngày khai mạc phải có những món thịt rừng nướng thì mới ra vẻ “Tây nguyên”.
Vũ Công – Tranh sơn dầu NGUYỄN THANH SƠN
Kế đến là triển lãm với chủ đề “Champa, Huyền thoại và Hiện thực”. Các họa sĩ trong công ty và bên ngoài cùng tham gia từ tranh nhiều thể loại như lụa, sơn mài, sơn dầu, tượng điêu khắc về đề tài này. Đây là một trong những cuộc triển lãm mà chúng tôi bỏ nhiều công sức khi muốn giới thiệu về mảng văn hóa, mỹ thuật của dân tộc Champa. Hôm ấy, bức tranh sơn dầu khổ lớn của Mai Anh Dũng rất hoành tráng thu hút người xem tranh. Những bức tượng điêu khắc thần Shiva, vũ nữ Apsara của Bình, tranh lụa của Thơ, sơn mài của Tiến Lên, Minh Tuấn, Thanh Tâm, Vũ Bái, Văn Y v.v… Tất cả đã tạo cho phòng tranh một không gian ấm cúng, đặc biệt với sự xuất hiện của ban quản lý thánh đường Hồi giáo tại thành phố, cùng cuốn băng nhạc Hồi giáo Indonesia mà cô con gái của vị chủ tế đền thờ đã cho chúng tôi mượn.
Triển lãm “Champa, Huyền Thoại Và Hiện Thực”
Một buổi sáng đầu tuần, tôi nhận được điện thoại của một giáo sư sử học người Chăm, anh Phú Hãn. Anh vừa từ Phan Rang dự lễ hội Ka Tê về và muốn đến xem cuộc triển lãm mà anh “từng ao ước thực hiện nhưng chưa làm được”. Khi đến phòng tranh, anh khen chúng tôi đã có một triển lãm theo một chủ đề hay và tiếc không được biết trước để tư vấn cho chúng tôi để cuộc triển lãm hoàn hảo hơn. Anh nhiệt tình giải thích rất hấp dẫn về văn hóa, lịch sử và tôn giáo Champa, còn khuyến khích tôi đi học thêm khoa Đông phương học. Anh phân tích những bức tranh trong triển lãm, mới hiểu rằng người Champa tại Việt Nam đa số theo Cham Bani và Cham Islam, hai tôn giáo thờ khác nhau, cách thức cúng lễ khác nhau nhưng họa sĩ lại vẽ tượng thần tôn giáo này với cách cúng bái của tôn giáo kia. Tôi đã đứng ngẩn người ra vì hối tiếc cho tác giả, vì các anh hẳn đã bỏ nhiều công sức khi thực hiện những tác phẩm này, đã bỏ hàng tháng trời ăn ở tại một ngôi làng người Chăm ở Phan Rang để nghiên cứu, ký họa lấy tư liệu cho tác phẩm. Lẽ ra những bức tranh ấy đã được mua, nhưng giờ đây nó có thể không còn giá trị vì đã không phản ánh đúng thực tế.
Từ những cuộc triển lãm theo chủ đề hấp dẫn này, sếp bắt đầu cảm thấy chúng tôi làm được việc. Ông khuyến khích chúng tôi cứ theo cách ấy mà làm. Rút kinh nghiệm lần triển lãm theo chủ đề trước, chúng tôi đã mời vị giáo sư đã gặp trong triển lãm Champa đến giảng cho nhóm họa sĩ công ty về văn hóa lịch sử Champa. Sau đó là mời nhà sử học Võ Sĩ Khải giảng về văn hóa Óc Eo, nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Huỳnh Ngọc Trảng về văn hóa lịch sử dân tộc Kh’mer tại miền Tây Nam bộ. Chúng tôi cũng được tiếp xúc cùng nhà văn lão thành Sơn Nam vài lần. Làm điều này để họa sĩ công ty được hiểu hơn về chủ đề mà họ sẽ sáng tác, vì chúng tôi đều mơ ước có thể tổ chức nhiều cuộc triển lãm giá trị không chỉ về mỹ thuật mà còn có giá trị về văn hóa, lịch sử.
Trong nhiều cuộc triển lãm tại phòng tranh ngày ấy, có một cuộc triển lãm mà chúng tôi rất may mắn và vinh dự được tổ chức, đó là triển lãm tranh các họa sĩ bậc thầy của nền hội họa đương đại Việt Nam: Nguyễn Gia Trí, Bùi Xuân Phái, Dương Bích Liên, Nguyễn Phan Chánh, Tô Ngọc Vân … Không dễ dàng gì có thể trưng bày cùng một lúc quá nhiều tác phẩm danh tiếng như thế. Đó là nhờ sự hợp tác của một số nhà sưu tập tranh tại thành phố, những người đã vì sự đam mê mỹ thuật và có điều kiện để sở hữu những tác phẩm giá trị này.
Cuộc triển lãm này rất thành công vì thu hút nhiều người đến phòng tranh để chiêm ngưỡng những bức danh họa nổi tiếng của các họa sĩ bậc thầy Việt Nam. Triển lãm kéo dài gần 2 tuần mà ngày nào khách tham quan cũng đến rất đông. Khi kết thúc, lúc chúng tôi đã đóng vào hộp để trả lại cho các nhà sưu tập vẫn còn nhiều người đến. Có người năn nỉ chúng tôi mở hộp cho họ được xem một chút. Nhiều người khác đến muộn đã suýt xoa tiếc nuối.
Từ bức tranh lụa nổi tiếng của Nguyễn Phan Chánh “Chơi ô ăn quan”, bức sơn mài “Chiều Vàng” “Thiếu Nữ” của Dương Bích Liên đến những bức tranh Phố cổ của Bùi Xuân Phái, mỗi bức tạo cho người xem một cảm xúc khó tả. Thật cảm động khi chúng tôi được nhìn tận mắt bộ tranh sơn mài “Thiếu nữ bên hoa Phù Dung” của Họa sĩ Nguyễn Gia Trí. Bộ tranh này họa sĩ sáng tác từ năm 1944, đã hơn 50 năm trôi qua, mà tác phẩm dường như còn nguyên vẹn dù thời gian có làm phôi phai chút ít. Những thiếu nữ mềm mại, duyên dáng bên khóm hoa phù dung, những ánh vàng làm điểm nhấn rất sang trọng, những mảng trứng gà cẩn thật khéo làm nền cho bức tranh.
Thiếu Nữ Bên Hoa Phù Dung – Tranh Sơn mài NGUYỄN GIA TRÍ (1944)
Chơi Ô Ăn Quan – Tranh lụa NGUYỄN PHAN CHÁNH
Thiếu Nữ – Tranh sơn dầu DƯƠNG BÍCH LIÊN
Có nhiều giai thoại về tranh của những bậc thầy hội họa Việt Nam này mà tôi đã từng nghe các họa sĩ kể. Có một nhà sưu tập nổi tiếng của Việt Nam, ông không phải là họa sĩ mà chỉ là một người yêu tranh, yêu đến nỗi bao nhiều tiền bạc đều đổ ra mua tranh. “Chơi ô ăn quan” nghe nói đã được một người Pháp mua đem về Pháp. Vậy mà nhiều năm sau, nhà sưu tập khi đi qua Pháp đã lặn lội đến khu bán đồ cổ, tìm thấy bức tranh này ở đây, ông đã mua và đem về lại quê hương của nó. Sau này, khi ông mất, tài sản để lại cho con cái là kho tàng tranh quý đó. Nghe nói lúc cuối đời, ông muốn dâng tặng tất cả tranh để thành lập một bảo tàng mang tên ông. Không biết lý do vì sao, khi ông mất thì những bức tranh này đều đã bán hết, chỉ có người con trai út là còn gìn giữ được trong phần tài sản của mình, về sau anh đã theo ý nguyện của cha, lập một phòng tranh mang tên ông. Riêng tranh của họa sĩ Bùi Xuân Phái, thì đa số thuộc về một chủ quán café yêu tranh ở miền Bắc. Người ta gọi tên ông là Lâm Cà phê, hay “Lâm toét”. Khách hàng đến uống café đa số là họa sĩ. Nhiều họa sĩ nghèo, không có tiền trả café, ngồi vẽ ngay trên bất kỳ mẩu giấy nào có được, một trang báo cũ, một tờ giấy vàng ngầu, một mảnh bố cũ kỹ, và những tác phẩm này được gửi lại cho chủ quán làm vật “thế chân”. Cứ như vậy, dần dần ông Lâm Cà phê có cả một kho tranh quý của các họa sĩ tiền phong trường Mỹ thuật Đông Dương. Đã có một thời gian, còn nhớ là vào giai đoạn “mở cửa”, nhiều nhà sưu tập, gallery nước ngoài đã đến Việt Nam tìm mua tranh của các họa sĩ bậc thầy này. Lúc đó những bức sơn mài quý giá của Nguyễn Gia Trí đã trở thành quốc bảo, không được phép xuất khẩu. Tranh phố cổ của Bùi Xuân Phái trở thành thời thượng, đâu cũng gặp người đi lùng mua. Mọi người thắc mắc, lúc sinh thời sao ông Phái vẽ nhiều đến thế? Có lần tôi gặp một người Nhật. Ông ta xem một số tranh Bùi Xuân Phái chúng tôi đang treo, ngậm ngùi nói rằng: “Tôi đã qua Việt Nam mua rất nhiều tranh ông Phái, có đến hàng trăm bức. Cuối cùng thì phát hiện những tranh tôi đã mua đều là tranh giả”. Điều này làm cho chúng tôi ngần ngại khi có khách hàng nhờ tìm mua tranh cổ. Giờ đây thì dường như cơn bão ấy cũng đã dần tan rồi.
Triển lãm tranh họa sĩ Trịnh Thanh Tùng
Mỗi lần bán được tranh, tôi thường gọi điện thoại cho họa sĩ báo tin. Các họa sĩ mỗi buổi sáng thường tập trung uống café ở sân hội Mỹ Thuật thành phố. Họa sĩ Hồ Hoàng Đài nói đùa: “Chúng tôi gọi cô là người đem niềm vui đến, nhất là mỗi lần nghe báo tin là tranh đã bán được!” Họa sĩ Hoàng Đài người Huế, ông vẽ tranh sơn mài, lụa, và độc đáo nhất là tranh dán giấy. Ông sưu tầm nhiều tạp chí nước ngoài, loại mỏng và dai, ông tiết lộ những cuốn Sears ngày xưa là một trong những vật tư thích hợp. Phác thảo trên giấy rồi, họa sĩ mới xé từng mảnh giấy, tuyệt đối không được dùng kéo cắt, chọn màu phù hợp, dán vào tranh cho thành hình. Những bức tranh dán giấy về chủ đề Chợ Quê của ông bán rất chạy, đặc biệt là khách hàng Nhật rất thích, giá nào họ cũng mua, có lẽ vì họ cũng có nghệ thuật truyền thống cắt dán giấy Origami, Kirigami. Nhìn cảnh chợ xổm ở quê thật vui mắt, có những quầy bán cá thịt, rau cải, có những người bán hàng tất bật, người mua hàng lăng xăng. Xa xa bao giờ cũng có lũy tre, cánh đồng lúa chín vàng, con trâu và chú bé mục đồng thổi sáo, bầu trời xanh với những cánh diều và đàn chim bay về tổ. Ông kể cho tôi nghe vì sao ông làm loại tranh này. Trước 1975, trong thời gian nhập ngũ, ông làm lính văn phòng. Ngồi không buồn quá, lại không có đồ nghề vẽ, ông nghĩ ra cách xé giấy dán thành tranh. Ai ngờ loại tranh này bán rất chạy, về sau ít có họa sĩ nào qua được ông về tranh dán giấy. Riêng với các họa sĩ lão thành, tôi đặc biệt thích những bức sơn mài thiếu nữ của họa sĩ Bùi Tấn Hưng, Chùa Hương của họa sĩ Lê Thanh Trừ. Các ông thường kể cho tôi nghe những câu chuyện liên quan. Để vẽ bức Chùa Thầy, nơi thiền sư Từ Đạo Hạnh thời nhà Lý đã trụ trì, họa sĩ Bùi Tấn Hưng phải vác lều chõng từ miền Nam ra tận Hà Tây, ăn dầm nằm dề cả năm trời để vẽ một bức ghép 4 tấm sơn mài 60*120 cm. Vẽ tranh phong cảnh miền Bắc, có lẽ không ai vượt qua được các họa sĩ miền Bắc. Hình ảnh những thiếu nữ Bắc Ninh với nón quai thao và áo tứ thân trong ngày hội, chỉ nhìn tranh thôi người ta có thể tưởng tượng như được nghe cả tiếng hát quan họ “Người ơi, người ở đừng về!”
Hình ảnh đẹp như tranh của Chùa Thầy ( google )
Sống trong không gian phòng tranh, mỗi ngày được nhìn thấy tranh, gặp gỡ được nhiều họa sĩ, nhà sưu tập, người yêu tranh, đối với tôi đó là những ngày hạnh phúc. Một trong những niềm vui là có một ngày bỗng dưng một đôi vợ chồng tỷ phú người Mỹ đến thăm công ty và mua một lúc 30 bức tranh. Họ còn hào phóng mời 2 họa sĩ mà chúng tôi đề cử đi Mỹ trong vòng 1 tháng vì họ đang xây dựng một dinh thự lớn như một tòa lâu đài ở một vùng núi thuộc New York. Tòa lâu đài đó có nhiều phòng. Mỗi phòng sẽ được trang trí theo phong cách khác nhau theo văn hóa mỹ thuật của một số nước trên thế giới. Nghe nói họ đã có chương trình định sẵn cho họa sĩ của một số quốc gia. Và khi qua Việt Nam, họ quyết định có thêm một khu vực dành cho mỹ thuật của Việt Nam tại dinh thự của họ. Chuyện này đã làm chúng tôi hào hứng biết bao nhiêu. Chúng tôi khuyến khích họa sĩ công ty vẽ tranh và triển lãm tại đây, vẫn cứ liên tục kế tiếp 10 ngày một đợt. Chúng tôi cũng đã chuẩn bị cho những triển lãm chủ đề các sắc tộc, những cuộc thi tranh sơn mài… Cũng có một số kế hoạch dang dở vì để thực hiện còn phụ thuộc vào nhiều điều kiện khác.
Sau này nhiều lần nhớ đến, với tôi có những giấc mơ đã thành, có giấc mơ đã tan, cũng có nhiều giấc mơ không bao giờ trở thành hiện thực, nhưng từ những giấc mơ đẹp đẽ của phòng tranh này là tình yêu của tôi, một tình yêu mãi mãi không tan vỡ.
NGUYỄN DIỆU TÂM
GỬI NGUYỄN DIỆU TÂM
Bài viết của em gái rất công phu và hay.
Hội họa là một trong nhiều đam mê của Tâm.
Bởi nghệ sĩ không có đam mê thì khó thành
danh, đúng không ?
RE: Nhớ Về Một Phòng Tranh
Anh Lữ mến, cảm ơn anh đã đọc. Đúng như anh nói, Tâm có nhiều đam mê, nhưng rồi cuối cùng cũng phải chọn lọc lại cái gì làm được và phù hợp nhất thôi. Ông bà mình vẫn nói “Nhất nghệ tinh nhất thân vinh” đó anh à! Tuy nhiên cũng phải tùy theo hoàn cảnh và điều kiện nữa phải không anh?
GỬI NGUYỄN DIỆU TÂM
Những suy nghĩ của Tâm rất đúng bởi vì em
rất chín chắn và tài hoa.Anh có một người
em gái đáng nể.hihi
Gửi ND Tâm
Tôi không biết vẽ, hội họa lại càng dốt, thế nên cũng ít quan tâm. Bữa nay đọc bài viết của DT đã mang lại cho tôi rất nhiều điều hay về một thế giới riêng, thế giới của màu sắc mà hồi nào tới giờ với tôi hết sức lạ lẫm. Cám ơn DT nhiều lắm. Chúc DT vui.
Gửi anh NĐ Hải
Không biết đó có phải là cái “nghiệp” không mà DT mê hội họa từ nhỏ. Nhà 10 anh chị em không ai giống mình hết, cũng hổng có ai ủng hộ! Lúc nhỏ, nhịn tiền ăn quà vặt mua truyện tranh vì thích hình vẽ. Sau này mỗi lần đi nước ngoài về, va ly nặng trĩu sách hội họa. Khi lao vào làm việc thì chỉ nghĩ đến cái đẹp thôi chứ quên mất chuyện tiền. Gian nan vất vả với nó… Vậy mà vẫn mê! Mới hiểu được nỗi đam mê của những nhà sưu tập. Hiểu được cái khổ của họa sĩ. Lắm lúc phải mất cả năm trời mới vẽ xong một bức tranh đắt ý. Vẽ xong rồi … mê luôn tranh hay người trong tranh, không muốn bán tranh vì đó là từ ruột mình rứt ra 😀
Cảm ơn anh đã đọc.
RE: Nhớ Về Một Phòng Tranh
Em thật sự tưởng như mình đang đứng lọt thỏm giữa không gian tranh của chị ghi lại trong bài . Em choáng ngợp với những thông tin về tranh chị biết. Bâng khuâng nhớ lại những buổi tối được đắm mình trong những bức tranh ở những buổi triển lãm tranh hiếm hoi của Bình Định, lâu rồi ít được tổ chức. Em thích vẽ…có những giờ, những ngày của tuổi trẻ em đã miệt mài trong phòng tranh truyền thần của thầy Sĩ ở đường Lê Lợi…
. Buồn là khi lấy chồng tất cả giấy bút đã xếp lại lúc nào không hay. Cảm ơn chị về bài viết chi tiết và đầy cảm hứng hôm nay, em như lại tìm thấy niềm đam mê một thời tưởng đã phai nhạt theo năm tháng…
RE: RE: Nhớ Về Một Phòng Tranh
Hòa thân mến. Chị rất hiểu “nỗi lòng” của em vì chị đã từng thích vẽ như em, và cũng đã từng “Buồn là khi lấy chồng tất cả giấy bút đã xếp lại lúc nào không hay”… Giai đoạn chị đành “xếp lại” sự đam mê này khoảng chừng 5 năm cho đến lúc con chị bắt đầu đi mẫu giáo, thì chị được vào làm họa sĩ cho công ty LS và gần 10 năm sau chuyển qua công tác ở Phòng tranh. Sau đó 5 năm có một thời gian đứt đoạn vì tình hình chung của công ty, rẽ qua thời trang, cứ nằm mơ thấy tranh hoài cuối cùng lại đi về theo những giấc mơ của mình bằng cách tự làm luôn. Cuộc đời không bao giờ là một con đường thẳng tắp trải đầy hoa, mà luôn có ngã rẽ ngang dọc, lắm lúc phải đứng trước ngã ba đường mà ray rức lựa chọn. Tuy nhiên nếu mình vẫn còn ôm ấp những giấc mơ đẹp và được đến với nó khi có điều kiện, thì cũng hạnh phúc đó em à. Chị nghĩ, đôi khi mình tưởng quá muộn, hoặc không thể được nữa, nhưng không phải đâu, nếu mình luôn yêu thích một thứ gì đó vẫn có thể tìm cách để hài hòa, bằng một cách nào đó gián tiếp. Em biết không, vào thời khó khăn chưa có nhiều sách vở, tư liệu qua Internet như hiện nay, chị đã từng mua một cuốn sách bằng tiếng Anh về lịch sử hội họa châu Âu, rồi đêm rảnh tự ngồi dịch từng trang … chỉ để cho mình đọc. Chị cũng mê công việc này như xem tranh vậy!
Chia xẻ với em một chút. Chuyện về tranh còn nhiều. Chị hy vọng có thể kể thêm cho em nghe. Chúc em luôn vui khỏe. Có thích biết thêm gì về chuyện tranh email cho chị nhé Hòa. Thân mến, DT
RE: RE: RE: Nhớ Về Một Phòng Tranh
Cảm ơn chị với những sẻ chia khiến em cảm thấy như được ủi an về những mất mát mà em tưởng chừng khó có thể bù lấp. Em chỉ có thể nói: hoàn cảnh như em hiện nay vẽ chỉ như là phút giây thư giãn mà thôi…Thương chị.
RE: Nhớ Về Một Phòng Tranh
Bài viết của chị công phu và đầy màu sắc với những bức tranh đẹp quá! Những đam mê một thời tưởng như chìm vào quên lãng nhưng thật sự là nó đã không những thế mà còn đậm sâu ở từng góc kỷ niệm.
Tiến luôn nghĩ tất cả mọi loại hình nghệ thuật đều quyến rũ Tiến chị Tâm ơi! Khi Tiến có dịp đứng trong phòng triển lãm, Tiến như bị thôi miên vậy! Từng mảng màu đánh thức trái tim mình! Và sự sáng tạo của con người khi đã là vô cùng thì tất cả giác quan của chúng ta như mở ngõ!
Có lần Tiến vẽ con chó mà BIBO hỏi mẹ vẽ con bò hả? Trời ơi, cái mộng làm họa sĩ tan như sương sớm!
Nói thế chứ Tiến đang nghĩ nay mai có thêm thì giờ, đi học vẽ chắc cũng thú lắm đây! KT
RE: RE: Nhớ Về Một Phòng Tranh
Tiến thân mến ơi, vẽ con chó mà cháu tưởng con bò, xin đừng sớm tan mộng làm họa sĩ! Tiến có thể lấy vài bức tranh của Picasso chỉ cho cháu xem. Con xem nè, mẹ không theo trường phái tả thực, mà mẹ thích “lập thể” và “trừu tượng”. Con phải biết tưởng tượng hơn thế nữa chứ! 😛
Năm lớp 6 Đồng Khánh Huế, có lần thầy Đinh Cường cho cả lớp vẽ tự do sân trường giờ ra chơi, eo ơi phải vẽ bao nhiêu là học sinh. Chị cố vẽ cho giống con người. Thầy bảo: Em không cần phải cố vẽ cho giống, hãy vẽ nguệch ngoạc mới dễ thương!
Thế nhưng, khi thầy cho đề vẽ tĩnh vật hộp chì màu, chị vẽ y chang thì thầy rất thích. Khó hiểu Tiến nhỉ? Nhưng vẽ là như vậy đấy. Tranh Picasso có nhiều thời kỳ, giai đoạn đầu tiên ông vẽ tả chân rất tuyệt vời, dần dần mới đi đến ấn tượng, lập thể, không thèm vẽ tả thực nữa. Chị mới hiểu vì sao những bài vẽ đầu tiên trong căn bản hội họa là phải nắm vững người và vật theo đúng tỷ lệ, phối cảnh của nó. Khi giỏi rồi, muốn làm méo mó ra sao cũng được, chứ đừng vẽ méo mó trước 😛
Nhớ Về Một Phòng Tranh
Đọc một mạch bài viết, thấy khâm phục chị thật nhiều đó chị ơi. Sao mà kiến thức của chị về hội họa lại rộng đến thế, đúng là một người năng động và đa tài…Chị đừng nở mũi ra xấu lắm à nhen. 😛 😀 😆
Chị ơi! TT cũng thích vẽ và biết vẽ chút chút, cũng đam mê lắm nhưng chỉ vẽ tranh ảnh cho mấy nhóc nhỏ MG thôi à, rồi cũng mua sách về xem để biết thêm nhưng chưa có thời gian để tập trung việc mình yêu thích. Vừa rồi không đi được BD để tham quan nơi chị làm là TT tiếc lắm đó…Từ QN đã có ý nghĩ đó rồ nhưng ngại và vì thời gian không cho phép nên không dám đề nghị cùng chị…Có lẽ năm sau phải làm nũng để chị dắt TT và Mây Xanh tham quan chị há. Cảm ơn bài viết thật công phu của chị.
RE: Nhớ Về Một Phòng Tranh
Thu Trang ơi, chị không dám nở mũi đâu, không phải sợ xấu mà là sợ … hổng phải như Trang nói!
Đi BD phải mất cả ngày, vì khá xa thành phố và đường đi lại hay bị kẹt xe. Vì thế sẽ không vui như đi uống cà phê đâu em 🙂 Cảm ơn em đã đọc.
Gửi Đào Thanh Hòa
Hòa ơi, chị rất vui khi nghe em nói “hiện nay vẽ chỉ như là phút giây thư giãn mà thôi”. Thì bây giờ những gì ta có thể làm như viết hay vẽ ( và nhiều thứ khác tùy thích ), có phải chỉ là “phút giây thư giãn” hay không? Có được chút niềm vui nào để cuộc sống có màu sắc hơn, chị nghĩ quá tốt rồi đó em chứ có mong chi thay đổi được cuộc đời?
Nhớ lâu rồi đọc báo có trường hợp một bà cụ quê miền Bắc, không hề được học vẽ, vậy mà năm đó đã trên 70 tuổi, cụ bắt đầu thích vẽ, con cháu muốn làm cho cụ vui nên mua bố, màu cho cụ tha hồ làm. Nhìn bức hình chụp bà cụ tóc bạc lưng còng ngồi trên chõng tre vẽ tranh thấy dễ thương làm sao! Vậy mà không ngờ cụ vẽ nhiều quá trời, đa số là cảnh nông thôn chung quanh cụ, như lũy tre làng, mái tranh, đàn gà v.v… Nhiều tranh quá, làng xã mới tổ chức cho cụ một cuộc triển lãm tranh. Tất nhiên là mọi người đều hoan nghênh, trong đó có nhiều cụ ông “lé mắt” 😛 Câu chuyện này làm chị thấy vui và cảm động lắm đó em.