Blog của cựu học sinh trường Nữ Trung Học Qui Nhơn

Trang NhàThể LoạiĐoản VănMột Chuyến Về Bình Định

Một Chuyến Về Bình Định

 

LTS: Đầu tháng 11.2009 Bác sĩ Nguyễn Trác Hiếu ở Mỹ về Bình Định tham gia Đoàn Thiện Nguyện khám chữa bệnh cho bệnh nhân ở các vùng thôn quê . Nthqn.org cám ơn BS Hiếu đã cho phép trích đăng những dòng nhật ký này .

Ngày 3 tháng 11 năm 2009

Một đêm trong tháng 10 năm 2009, tôi vào website của một người bạn và được biết có một đoàn thiện nguyện y tế từ Mỹ sẽ về Bình Định vào đầu tháng 11-2009. Tôi tiếp xúc với đoàn thiện nguyện và được chấp thuận tham gia công tác.

Tôi tìm người làm thay phòng mạch trong khi tôi vắng nhà nhưng không tìm được ai vì thời gian quá gấp. Vợ tôi cũng là người Bình Định, khuyến khích tôi đóng cửa phòng mạch 2 tuần để tháp tùng đoàn thiện nguyện. Nàng muốn được dịp đi thăm các cháu ngoại ở Hoa Thịnh Đốn. Vậy là tôi gấp rút chuẩn bị cho chuyến đi thứ 7 của tôi. Sáu chuyến trước, từ năm 2001, tôi cũng đã được bệnh nhân và bạn bè cùng khóa y khoa của tôi hổ trợ tinh thần và vật chất để tôi về Bình Định giúp đỡ các cô nhi và học sinh nghèo.

Trong vòng 2 tuần, bạn bè và đoàn thiện nguyện đã giúp tôi lo đủ giấy tờ hợp lệ và vé máy bay đi VN. Không lâu trước khi khởi hành, chúng tôi được tin cơn bão số 11 vừa ập đến tàn phá miền Trung VN trong đó có Bình Định là nơi chúng tôi sắp đến khám bệnh phát thuốc. Đoàn thiện nguyện lại tổ chức quyên góp thêm tiền để cứu trợ bão lụt. Đoàn hăng hái chấp nhận thử thách và quyết định lên đường.

Riêng tôi, tôi được vợ tôi chích ngừa thêm nhiều thứ thuốc chủng vì nàng nghĩ bão lụt có thể gây nên bệnh dịch hay muỗi mòng. Hai cánh tay tôi sưng lên với những mũi chích ngừa như Cảm Cúm Theo Mùa, Cảm Cúm Heo mà nàng gọi đùa là Cảm Thương Nàng, Cảm Thương Em , Viêm Gan Siêu Vi A và B, Phong Đòn Gánh, Sưng Phổi. Nàng không mua được thuốc ngừa dịch tả nên hai cánh tay tôi đỡ bị sưng lâu. Thuốc ngừa dịch tả có lần đã làm vai tôi sưng đến 2 tuần. Nàng bỏ vào va li tôi thuốc chống tiêu chảy, chống sốt rét, thuốc ngừa muỗi mòng, thuốc kháng sinh… Nàng mua cho tôi cả mũ rộng vành, quần áo chống mưa, giày vải, kiếng đen, túi đựng tiền cho khỏi bị mất… Quà sinh nhật nàng tặng tôi mà tôi thích nhất là chiếc máy ảnh Nikon D90 mới tinh với đầy đủ phụ tùng.


Tôi ngồi nghĩ nhớ lại những ngày lao lý, gian nan trong rừng sâu sau năm 1975. Chúng tôi ăn măng tre để lấp đầy bao tử, uống nước bùn ở hố bom B52, nằm mùng rách tả tơi, mặc áo quần vá đùm vá chụp, không có lấy một viên thuốc ngừa sốt rét hay trị kiết lỵ mà chúng tôi vẫn còn sống sót trở về. Nay, một chuyến về quê mà được vợ trang bị tận răng làm tôi mỉm cười nhưng cũng cảm ơn người bạn đời biết lo cho chồng.

Trưa 4 tháng 11 năm 2009

Máy bay đang giảm độ cao khi đến gần San Francisco. California trời nắng đẹp. Bầu trời trong xanh. Nhiệt độ ở SF là 63 độ F. Bên nửa kia của trái đất, đồng bào miền Trung VN đang bị chìm ngập trong nước lũ. Một chiếc cầu trên đường từ Quy Nhơn đi Vân Canh đã bị sập. Một ống dẫn nước gốc ở Quy Nhơn cũng bị bể. Quy Nhơn mất điện, thiếu nước. Đó là những tin tức tôi nhận được trước khi lên đường.

Cái laptop của tôi làm reo thình lình nên giờ nầy tôi không thể liên lạc với bạn bè. Bạn bè hai trường Cường Để và Nữ Trung Học Quy Nhơn đang tổ chức văn nghệ ở Sài Gòn để quyên góp cứu trợ đồng bào bị bão lụt Bình Định. Tôi sẽ về đến Sài Gòn lúc 10 giờ đêm 5 tháng 11 nên không tham gia kịp đêm văn nghệ.

Đêm 5 tháng 11 năm 2009

Sài Gòn ô nhiễm, nóng nực. Đêm mà xe cộ vẫn đông như kiến. Má tôi thức khuya đón con trai từ xa về. Con mừng thấy má khỏe và vui tươi.

Ngày 6 tháng 11 năm 2009

Ngày sinh của tôi. Tuần trước các con tôi nghe tôi sắp đi VN, đã tổ chức mừng sinh nhật tôi trước một tuần ở tiệm ăn và tặng tôi áo quần du lịch mùa hè thật đẹp.
Hôm chủ nhật rồi bà ngoại lại tổ chức sinh nhật cho ông ngoại. Có nhiều bạn bè đến chung vui. Một em gái tôi tặng tôi một cặp kiếng mắt mới ra nắng đậm màu xinh xắn, chắc chắn. Bà ngoại tặng ông ngoại một chiếc nhẫn mới bằng vàng trắng rất hợp với đồng hồ đeo tay các con tặng. Bạn bè đã chụp cho gia đình tôi những tấm hình sinh nhật ý nghĩa. Tôi cắt bánh sinh nhật lần thứ 2.

Trưa 6 tháng 11, chúng tôi, mấy người bạn Cường Để và Nữ Trung Học họp nhau ở quán để hàn huyên. Thi sĩ Huỳnh Minh Lệ, dân Cường Để, từ Xuyên Mộc xa xôi cũng về Sài Gòn gặp bạn bè. Tôi được bạn bè cho cắt bánh sinh nhật lần thứ 3.
Chiều 6 tháng 11, đoàn thiện nguyện họp nhau ở quán Đen Giòn ở Sài Gòn để giới thiệu nhau vì thành viên của đoàn đến từ nhiều tiểu bang khác nhau của nước Mỹ, nhiều người chưa hề biết mặt nhau. Đầu tiệc, tôi ngạc nhiên khi được gọi tên cùng với hai bạn nữa ra đứng gần một chiếc bàn nhỏ giữa phòng họp. Một bạn trẻ Mỹ nói đùa, “You are in trouble, Dr. Nguyen!” Một chiếc bánh sinh nhật lớn và đẹp được nhà hàng mang ra và mọi người cùng hát bản Mừng Sinh Nhật. Vậy là tôi được cắt bánh sinh nhật lần thứ 4. Tiệc xong, những bạn đi xe hơi về Quy Nhơn lên đường ngay trong đêm để đến Quy Nhơn kịp chiều hôm sau.

Các em gái tôi ở SG mừng anh ở Mỹ về. Tôi cắt bánh sinh nhật lần thú 5.

Ngày 7 tháng 11 năm 2009

Tôi dậy sớm từ nhà em tôi lúc 3 giờ sáng để ra phi trường Tân Sơn Nhất lúc 4 giờ đi Quy Nhơn. Chờ mãi không thấy đoàn thiện nguyện đâu, tôi tự check in vào lúc 5 giờ 30 xong đoàn mới đến. Máy bay cất cánh lúc 6 giờ 20 sáng và chuyến bay sẽ kéo dài khoảng 50 phút.

Khi lên máy bay, tôi để ý xem các cô tiếp viên hàng không của Air Việt Nam có cười không thì thoáng thấy có một cô vừa chào hành khách bước vào phi cơ vừa mỉm cười tuy không được tự nhiên lắm. Hai cô khác vẫn mặt lạnh như tiền. Vậy cũng đủ để nói là đã có chút thay đổi. Trước đó, nhiều bài báo được hành khách hàng không VN người ngoại quốc và cả người Việt bay đường bay quốc tế và nội địa, viết đăng trên mạng toàn cầu chê tiếp viên hàng không VN không biết cười và không phục vụ hành khách đúng mức.

Khi máy bay bay trên địa phận Bình Định tôi còn nhìn thấy nước lụt trắng đồng. Khi máy bay hạ cánh ở phi trường Phù Cát, ruộng chung quanh phi trường Phù Cát còn ngập nước. Xe bus đưa chúng tôi về Quy Nhơn. Trên đường từ Phù Cát về Quy Nhơn có hai thành viên giới thiệu với đoàn thiện nguyện sơ lược về Bình Định và đặc sản Bình Định. Tôi được yêu cầu nói một chút về địa lý, lịch sử và y tế của Bình Định.
Đoàn ngụ tại khách sạn Quy Nhơn. Mọi người chung tay sửa soạn thuốc và quà cho công tác tuần tới. Chiều, những thành viên đi xe hơi cũng vừa về đến.

Ngày 8 tháng 11 năm 2009

Sau bữa ăn sáng tại khách sạn, chúng lên lên xe đi thăm một cơ sở các em khuyết tật ở Quy Nhơn. Cơ sở có tên Cơ Sở Nguyễn Nga. Chị Nguyễn Nga, nói tiếng Anh lưu loát, và các em khuyết tật tiếp đón đoàn thiện nguyện niềm nỡ bằng thuyết trình, biểu diễn khẩu cầm, guitar, vũ điệu. Tôi và hai bạn nữa lại được mời đứng trước đám đông nghe mọi người hát bản Mừng Sinh Nhật. Chị Nguyễn Nga yêu cầu 3 chúng tôi đáp lễ. Tôi nghe bà bác sĩ người Mỹ tên X, một trong 3 chúng tôi nói, “Tôi không biết hát, biết làm sao đây?” Ngay lúc ấy người bạn nữ VN đáp lễ bằng điệu nhảy tuýt theo điệu nhạc của nhạc sĩ key board của cơ sở Nguyễn Nga. Bà bác sĩ X thừa cơ lắc lư theo luôn. Đến lượt tôi, tôi xin hát một bài hát ngắn Hướng Đạo. Khi tôi vừa bắt đầu bài hát quen thuộc thì mọi người vỗ tay hát theo thật vui. Bài hát được tôi đổi vài chữ: “Nào về đây ta họp mặt cùng nhau. Cuộc đời y sĩ có lúc nào thảnh thơi. Anh với tôi ta cùng sống vui trọn ngày. Rồi mai nầy chúng ta lại gặp nhau…”

Ba chúng tôi được các em tặng mỗi người một cuốn sổ tay để ghi chép những kỷ niệm của cuộc thăm viếng và công tác ở Bình Định. Khi chúng tôi rời cơ sở khuyết tật, các em đã tặng mỗi người chúng tôi một “sợi dây may mắn” đeo ở cổ tay. Đoàn đã tặng các em và cơ sở Nguyễn Nga nhiều gói quà và hiện kim.

Trung Tâm Nguyễn Nga

Trên đường đi Tây Sơn, chúng tôi ghé thăm Tháp Bánh Ít gần cầu Bà Gi. Ba tháp nầy do người Chăm (trước năm 1975 thường được gọi là người Chàm) xây dựng từ nhiều trăm năm trước, khi mà Quy Nhơn còn là kinh đô Đồ Bàn của quốc gia Chăm. Tôi được nhìn lại những nơi quanh tháp mà liên đoàn hướng đạo Đống Đa thuôc đạo Bình Định từng nhiều lần cắm trại. Nơi đây 50 năm trước, có những chàng trai trẻ tuổi học sinh, trải bạt trên cỏ xanh, nằm ngửa ngắm trăng sao, thực tập tìm phương hướng qua sao trời, nghe các trưởng lớn tuổi nói chuyện đời.

Tháp Bánh Ít

Quốc lộ 19 từ Quy Nhơn đi Pleiku trước được người Pháp xây dựng, sau đình chiến người Mỹ nới rộng và tu bổ, nay đã hư hao nhiều. Đi xe đạp trên con đường nầy cũng phải mãi lộ. Từ Phú Phong, chúng tôi băng ngang cầu Kiên Mỹ bắt qua sông Côn để đến đền Quang Trung tọa lạc ở thôn Kiên Mỹ. Nước sông Côn sau cơn bão còn cao nhưng không ngập cầu.

Chiều Trên Sông Côn Mùa Lụt

Nơi đây, tôi nhìn dòng nước trôi xuôi, nhớ lại thời thơ ấu khi còn học tiểu học trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, cùng bạn bè từng tắm sông Côn sau giờ học. Được tắm sông và đùa giỡn trong nước mát trong vắt là niềm vui và hạnh phúc của đám trẻ quê chúng tôi. Có lần thầy giáo biết được đã phạt đánh chúng tôi bằng roi mây sưng cả mông. Thầy sợ chúng tôi chết chìm tuy chúng tôi đứa nào cũng bơi lội giỏi như rái cá. Ngày ấy tuy còn nhỏ nhưng tôi cũng theo mẹ tôi đi chợ đêm Kiên Mỹ giúp bà buôn bán một gánh hàng xén. Nhờ gánh hàng xén nầy mà bà nuôi đủ đàn con trong khi cha tôi bị trưng dụng đi nhắm đường, vẽ bản đồ đường sá, cầu cống trên cao nguyên cả năm chưa được về. Nhờ mẹ tôi tần tảo mà mười mấy anh em chúng tôi không bị đói cơm, rách áo như những gia đình làm nông khác trong vùng.

Ngay trước đền Quang Trung có một con rạch chảy ngang chợ đêm Kiên Mỹ, nước rạch trong vắt. Mỗi phiên chợ, sau khi hoàn tất công tác buôn bán phụ giúp mẹ tôi, tôi được mẹ tôi cho phép tắm và bơi trong con lạch nầy trưóc khi mẹ con ra về lúc trời sắp sáng, khi sao mai xuất hiện cuối trời, để tránh bị oanh tạc bởi máy bay Pháp. Hôm đoàn thiện nguyện thăm đền Quang Trung thì nước lạch đục ngầu do mưa lũ. Tôi bấm đốt tay tính thời gian. Đã đúng 60 năm thằng bé quê đi chợ đêm, tắm lạch, trở về nhìn lại dòng nước xưa. Lòng tôi thoáng một chút bồi hồi khi hồi tưởng về tuổi ấu thơ nơi quê nhà Bình Định. Chạnh lòng nhớ bạn thời thơ ấu, một số đã bị bom Pháp sát hại khi tóc còn xanh, nhiều người nằm xuống trong cuộc chiến tương tàn, một số ra đi ở tuổi 50-60 vì bệnh tật. Những bạn bè còn sống giờ tóc đã bạc phơ.


Con lạch thời thơ ấu, ngay trước đền Quang Trung, nước đục trong mùa lụt

Sau khi thăm viếng đền Quang Trung, đoàn thiện nguyện được xem biểu diễn võ thuật Bình Định, biểu diễn trống trận và vũ điệu dân tộc. Đoàn đáp lễ bằng tặng quà cho biểu diễn viên.

Rời đền Quang Trung chúng tôi ghé thăm Chùa Thập Tháp nằm không xa quốc lộ 19 về phía bắc. Chùa xây đã lâu đời, không được tu bổ nên rêu phong, tàn tạ. Trong khuôn viên chùa có 10 cái tháp nhỏ là nơi chôn giữ xác thân của các vị tu sĩ ngày xưa. Bản thân tôi, dù đã đi qua đây nhiều lần, đây lần đầu tiên ghé thăm một cổ tích. Một vị sư đang cư ngụ trong chùa tuổi đã 102 mà còn lanh lẹ. Vị sư biểu diễn cho chúng tôi xem mấy bài quyền võ Bình Định. Ông tiến lui xoay trở nhanh nhẹn như thanh niên làm mọi người ngạc nhiên.


Sư cụ trụ trì chùa Thập Tháp, 102 tuổi, đang nhanh nhẹn múa biểu diễn võ Bình Định

Có một thành viên trẻ của đoàn đã thắp hương cầu nguyện trước bàn thờ đức Phật. Chúng tôi giữ yên lặng cho cô cầu nguyện. Bản thân tôi, trong những giờ phút nguy nan, tuyệt vọng trong cuộc sống lao lý giữa rừng sâu, giữa cái chết và sự sống, những giờ phút đối đầu với giông tố bão bùng ngoài biển khơi, những giây phút tranh đấu với tử thần để cứu mạng đồng đội trong chiến tranh, tôi cũng đã cầu nguyện và rất nhiều lần được toại nguyện.


Sư cụ 102 tuổi, múa võ Bình Định còn nhanh nhẹn như thanh niên. Người mặc áo xanh là chú bé dân Tây Sơn

Ngày 9 tháng 11 năm 2009

Chúng tôi về đến Quy Nhơn trưa ngày 7 tháng 11. Ngày chủ nhật 8 tháng 11, buổi sáng chúng tôi đi viếng một Cơ Sở Khuyết Tật tại Quy Nhơn, ghé thăm Tháp Bánh Ít gần cầu Bà Gi, buổi trưa đi thăm đền Quang Trung ở quận Tây Sơn (tên cũ là Bình Khê), chiều ghé Chùa Thập Tháp.


Đây là môt tháp trong chùa Thập Tháp, mộ phần của các vị sư quá cố.

Đoàn Cứu Trợ Cường Để-Nữ Trung Học đi cứu trợ bão lụt từ 8 tháng 11. Ngày 9 tháng 11, đoàn thiện nguyện y tế bắt đầu đi khám bệnh phát thuốc ở xã An Thái, quê của một thành viên trong đoàn thiện nguyện.

Đường từ Quy Nhơn đi An Thái không bị hư hại nhiều sau cơn bão và nước lụt, hai xe buýt của đoàn đến nơi đúng giờ. Địa điểm khám bệnh là một trụ sở xã. Bệnh nhân và dân chúng tề tựu khá đông, cả mấy trăm người. Sau khoảng nửa giờ chuyển quà thuốc, dụng cụ và sắp xếp phòng ốc, đoàn bắt đầu khám bệnh phát thuốc, phát quà.

Cơ sở chật hẹp, bệnh nhân lại đông, tiếng người nói, tiếng loa phóng thanh, tiếng trẻ em khóc biến trụ sở xã thành một cái chợ phiên. Tôi phải nói thật lớn tiếng để bệnh nhân mới có thể nghe được những câu hỏi của tôi. Được nửa buổi thì giọng tôi đã khàn. Các bác sĩ Mỹ cần thông dịch thì chắc chắn gặp nhiều khó khăn giao tiếp với bệnh nhân. Trời nóng và ẩm, chỉ cần cử động một chút là mồ hôi ứa ra ướt áo. Mấy chiếc quạt trần chạy hết tốc lực nhưng cũng không đem lại một luồn hơi mát nào.


Một Số Thành Viên Đoàn Thiện Nguyện, Ghềnh Ráng, Quy Nhơn

Bệnh nhân của tôi gồm đủ lứa tuổi. Hầu như trẻ em nào cũng bị hư răng, có em có cả 6 chiếc răng bị hư nặng cần nhổ bỏ hay trám. Bệnh suy dinh dưỡng rất nhiều. Bệnh sán lãi, đau bụng, ngứa hậu môn cũng không ít. Các em chậm lớn, nhẹ cân. Tôi gặp bệnh nhân đàn ông bị bệnh tim phổi, xơ gan, đau bao tử kinh niên, bệnh đau xương, nhức khớp, huyết áo cao, tiểu đường. Bệnh sử cho thấy bệnh nhân không được chẩn đoán đúng mức, chữa trị thì sơ sài. Bệnh nhân khi dùng thuốc tây, khi thuốc nam, thuốc bắc, lá lảy một cách lẫn lộn, mơ hồ, không đúng mức. Bệnh nhân thì quá nghèo, không mấy người có tiền đi bác sĩ hay bệnh viện, họ tự chẩn bệnh, tự mua thuốc, tự trị qua loa nên bệnh thường tái đi tái lại hay trở nặng hơn vì do định bệnh sai, dùng thuốc sai. Nói chung mức săn sóc y tế còn rất thấp vì nhà nước thiếu thốn ý chí, phương tiện, nhân lực. Khả năng của nhân viên y tế lại kém cõi.

Có một điều tôi để ý từ khi bước chân xuống xe buýt là không thấy được tiếng chào hay nụ cười từ các nhân viên, công chức xã, công an, bảo vệ tại nơi chúng tôi làm việc. Họ yên lặng đánh máy trong các phòng làm việc hay đứng dựa thành hàng trên hành lang tầng hai của cơ sở mà yên lặng, thậm chí có thể nói là lạnh nhạt, nhìn đoàn chúng tôi khuân vác thuốc men, dụng cụ, quà cáp, đi lại như đàn kiến trong sân trụ sở xã.

Trưa đến, đoàn chúng tôi nghỉ tay một giờ để ăn trưa. Những bệnh nhân chưa được khám cũng về ăn trưa rồi trở lại vào buổi xế. Tôi để ý thấy ba cụ già, không lãnh được phiếu khám bệnh, không chịu về, bỏ bữa cơm trưa, ngồi lại chờ cho được khám. Tôi không biết rồi các cụ có được phát phiếu khám bệnh hay không.

Trước khi lên đường về quê VN, tôi tưởng tượng trưa mỗi thành viên của đoàn sẽ được phát một gói mì hay một ổ bánh mì và một chai nước, nhưng không, ngoài sức tưởng tượng của tôi, chúng tôi được ăn trưa thịnh soạn do các chị trong ban ẩm thực của đoàn đảm trách. Mỗi bàn tròn mười người ăn. Ngồi vào bàn ăn, tôi tình cờ ngồi gần tô cơm lớn. Tôi xới cơm cho các bạn cùng bàn. Một chị ngồi đối diện tôi phía bên kia bàn, lắc đầu không chịu đưa chén của chị cho tôi xới cơm. Thấy tôi nhìn chị dò hỏi, chị chỉ vào một đĩa bún xào lớn cũng nằm ngay trước mặt tôi. Thì ra chị không thích ăn cơm mà chỉ thích ăn bún Song Thần xào mà thôi. Bún Song Thần làm bằng bột đậu xanh, nổi tiếng ngon vùng An Thái. Tôi ăn thử bún Song Thần và thấy bún ngon thật. Mọi người khen lấy khen để và ban ẩm thực lại tiếp tế thêm nhiều bún xào Song Thần. Thức ăn ngon, chúng tôi lại đói nên ăn được nhiều. Thức ăn tráng miệng có chuối, bánh ít lá gai. Bạn nào chưa biết mùi vị bánh ít lá gai thì nên về thăm Bình Định, Quy Nhơn một lần. Ngon tuyệt.

Cuối ngày, anh trưởng đoàn tuyên bố ngày đầu tiên tại An Thái, đoàn đã khám được 520 bệnh nhân. Giờ đó mới thấy ông xã trưởng ngỏ lời cảm ơn đoàn đã về giúp đỡ dân An Thái và mong đòan sẽ trở lại trong tương lai.

Nhân nói về An Thái, tôi muốn kể cho quý bạn nghe một chút kỷ niệm của tôi về An Thái. Khoảng năm 1947-1948, ba má tôi đưa tôi về An Thái thăm người bà con trong một dịp Tết. Từ Bình Khê, nay là Tây Sơn chúng tôi băng đồng qua An Vinh, vừa tắm vừa lội ngang sông Côn để đến An Thái. Nước sâu đến ngực, tôi mê bơi, ba tôi phải kéo tôi ra khỏi nước sông Côn mát rượi, hứa sẽ cho tôi bơi lâu hơn trên đường về.

Đến An Thái chúng tôi tham gia chơi Bài Chòi. Bài Chòi tương tự như Bingo hay Lô Tô. Ngồi trên chòi cao, vừa nghe người hát bài chòi vừa nhìn thẻ xem có đúng số của mình không. Tôi may mắn trúng liên tiếp mấy lần được thưởng tiền. Tôi và má tôi đều thích ăn me dốt tức me chua chín tới, vừa chua vừa ngọt. Tôi ăn chưa hết chùm me thì bụng tôi bắt đầu quặn. Mấy chú lãi chắc là đang vật lộn nhau giành ăn món lạ tôi vừa nuốt vào. Thấy tôi đau bụng quắn quíu, ba tôi dìu nhanh tôi vào nhà người quen, một ông cụ tóc trắng mà ba gọi bằng bác. Ông cụ hỏi lý do làm đau bụng rồi nói, “Cháu đừng lo, ông có một thứ thuốc bột thật thơm. Cháu uống vào là cả nhà lãi sẽ rủ nhau chạy ra khỏi ruột cháu liền.” Ông là thầy thuốc Bắc nổi tiếng trong vùng. Tôi ngồi ôm bụng chờ ông cụ tán thuốc. Mùi thuốc thật thơm, vị ngọt ngọt như quế. Quả thật, sau khi uống xong toa thuốc bột của ông cụ được 15 phút là tôi phải bương bả chạy ra sau vườn ông cụ ngay. Xong chuyện, bụng như xẹp xuống, hết quặn. Tôi rùng mình nhìn hàng trăm con lãi kim và cả chục con lãi đũa đang quần nhau trong chiếc lỗ tôi đào bằng cuốc. Tôi nghĩ thầm, “Trời quơi, mình nuôi đám lãi ăn hại nầy trong ruột mình năm nầy tháng nọ vậy sao?” Nửa giờ sau bụng yên. Trên đường về vào buổi chiều tôi được ba tôi cho tắm sông thõa thích.


Các bệnh nhân nhi đồng lân la làm quen với bác sĩ già trong giờ nghỉ trưa

Hôm khám bệnh cho trẻ con An Thái, tôi nghe nhiều em than đau bụng kiểu của tôi hồi nhỏ, bụng tròn lẳng. Ăn gì ngon, gì lạ là đau bụng. Đói, bụng cũng cồn cào vì những nguời bạn nhỏ đang lục lọi tìm thức ăn. Tôi mỉm cười một mình, nhớ về thời thơ ấu ở nhà quê, tay dơ vẫn bốc thức ăn, gặp nước sông, nước suối, nước giếng là ực, đào được một củ khoai lang tươi cũng phủi phủi rồi nhai, chẳng biết vệ sinh là gì. Tôi vừa mỉm cười vừa biên toa thuốc sán lãi cho các bệnh nhân trẻ của tôi. Có một lần tôi viết thêm hai mẫu tự O&P (Ova and Parasites = Trứng và Sán) vào hồ sơ bệnh nhân để cười một mình cho vui. Tại An Thái, tôi khám bệnh không có y tá phụ giúp như bên Mỹ nên chẳng ai biết tôi cười gì, chắc là cười mình chứ không phải cười đám trẻ quê thân thương, hình ảnh của tôi trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp ở liên khu 5. Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua rồi còn gì. Đời người quả như ánh chớp chiều tà…

Ngày 10 tháng 11 năm 2009

Hôm nay, chúng tôi đi Vân Canh, một quận nằm về phía tây nam tỉnh Bình Định. Ở Sài Gòn, chúng tôi được anh đoàn trưởng thông báo rằng nước lũ đã làm sập một cây cầu trên đường từ Quy Nhơn đi Vân Canh, chúng tôi có thể phải đi bộ nhiều cây số hay phải sang xe để đến địa điểm khám bệnh. May thay, ngày đi Vân Canh thì cây cầu đã được tạm thời sửa chữa và xe cộ có thể qua lại được.

Tôi lớn lên ở Bình Định nhưng chưa hề đặt chân tới quận lỵ Vân Canh nơi mà ngày xưa nổi tiếng mũi mòng, nước độc. Trước năm 1975, tôi có bệnh nhân từ Vân Canh ra Quy Nhơn chữa bệnh sốt rét. Binh sĩ cũng có nhiều người bị sốt rét khi đồn trú hay đi hành quân vùng nầy.


Sông Hà Thanh Sau Trận Lụt Lớn

Khi chúng tôi đến Vân Canh thì mực nước con sông Hà Thanh chạy dọc đường đi đã rút xuống mực bình thường. Hai bờ sông đất bị xói mòn
trầm trọng. Nhìn vết rát rưởi còn vướng trên bờ tre hai bên bờ sông cho thấy mực nước lũ đã dâng lên rất cao trước đó. Nghe nói có năm bảy gia đình bị thiệt hại về nhân mạng. Gà vịt bị chết nhiều.


Bệnh nhân và nạn nhân bão lụt – Vân Canh

Địa điểm khám bệnh là một trụ sở xã. Dân chúng ở đây đa số là người sắc tộc. Trước năm 1975, chúng quen gọi họ là người Thượng. Theo thông báo của đoàn thiện nguyện y tế thì dân cư vùng nầy 100% người sắc tộc nhưng khi khám bệnh thì bản thân tôi gặp được vài bệnh nhân người Kinh. Cô y tá trưởng trạm xá xã Canh Hiệp là người Kinh, nói giọng Bắc vì được cha mẹ quê Vân Canh, tập kết ra Bắc và sinh cô ở miền Bắc.

Tôi không biết lấy một tiếng người sắc tộc nào nên đêm trước khi đi Vân Canh tôi hơi lo âu không biết đồng bào ở đây có hiểu được tiếng Kinh hay không hay là chính tôi người Việt lại phải nhờ người thông dịch. May thay, khi trực tiếp khám bệnh đồng bào tôi mới biết ra hầu hết bệnh nhân đều hiểu được tiếng Kinh và nói tiếng Kinh gần đúng giọng, chỉ quên đánh dấu một số chữ. Ngồi cạnh tôi, một bác sĩ Mỹ có lần cần đến hai thông dịch viên, một dịch tiếng sắc tộc ra tiếng Việt, một dịch tiếng Việt ra tiếng Mỹ. Tôi chỉ một lần không hiểu được hai tiếng Việt nói bởi một bà mẹ sắc tộc.

Tôi hỏi bà mẹ một em bệnh nhân 9 tuổi:
– Cháu có bị bệnh kinh niên gì không mà than nhức đầu hoài vậy chị?
Bà mẹ đáp:
– Co, chau bi tét xẹt!
Tôi không hiểu tét xẹt là gì, nhờ bà nói lại. Khi bà lập lại đến lần thứ tư mà tôi vẫn chưa đoán ra nghĩa của hai chữ tét xẹt thì tôi quay sang chị bạn Nữ Trung Học nhờ nghe hộ. Chị bạn lại gần bà mẹ em bệnh nhân nghe xong mỉm cười:
– Chị ấy nói cháu bị té xe.
Tôi bật cười vì sự chậm hiểu của tôi.

Một trong những bệnh nhân của tôi là một cụ già tuổi khoảng 70. Ông chống gậy và được người con trai dìu đi mò mẫm. Ông than đau nhức trong hai mắt hầu như mỗi ngày. Mắt phải của ông không còn nhìn thấy gì, con ngươi bị một màng trắng che phủ. Mắt trái chỉ nhìn thấy lờ mờ. Tôi nghi ông bị chứng áp suất tròng mắt cao. Tôi nhờ anh bác sĩ trẻ chuyên khoa mắt (opthalmologist) đi theo đoàn khám lại. Anh đồng ý với định bệnh của tôi. Liếc qua danh sách thuốc của đoàn tôi không thấy có loại thuốc nào chữa chứng áp suất mắt cao, tôi định biên toa nhưng chợt nhớ người con trai của ông đã cho tôi biết nhà ông rất nghèo, ông bị bệnh mắt đã mấy năm mà không có tiền đi khám bệnh hay mua thuốc nên tôi quyết định giới thiệu ông đi bệnh viện tỉnh ở Quy Nhơn với hy vọng được chữa trị. Tôi nói với bệnh nhân và người con trai của ông:
– Mắt phải của bác đã bị mất thị giác, mắt trái còn hy vọng thấy lại được nếu được chữa ngay. Anh tìm mọi cách đưa bác về Quy Nhơn ngay kẻo bác bị mù cả hai mắt thì khổ cho bác và cho gia đình lắm.
Người con trai của bệnh nhân có vẻ thất vọng vì các bác sĩ từ Mỹ về không làm được gì cho cha mình nhưng cuối cùng cũng run run cầm tờ giấy giới thiệu của tôi và dìu cha đứng dậy. Tôi thấy lòng nằng nặng vì sự bất lực của mình trước một bệnh có thể chữa được dễ dàng nếu bệnh nhân đang sống ở một nơi khác. Năm 1976, trong rừng biên giới Miên-Việt, tôi cũng đã trải qua cái cảm giác bất lực và đau thương khi nhìn một bạn tù bị sốt rét, đi tiểu ra máu đen đậm như xì dầu mà chúng tôi không có lấy một viên thuốc, một chai nước để cứu mạng anh.

Một bệnh nhân khác của tôi là một cậu bé 14 tuổi mà ốm yếu và nhỏ con như một em bé 5 tuổi. Bà mẹ gầy gò của em đã bồng em dễ dàng trong vòng tay bà. Tôi hơi sững sờ trước bệnh nhân gầy ốm của tôi mà tôi chưa hề được chứng kiến bất cứ một trường hợp nào trong mấy chục năm hành nghề. Tôi hỏi:
– Em nó bị sao mà ốm yếu quá vậy chị?
Bà mẹ đáp:
– Em nó bị bệnh từ hồi một hai tuổi, ăn không được, bệnh đi bệnh lại hoài, thở không nổi, ho hen luôn, mới đây em bị gãy cả hai chân vừa mới lành.
Tôi khám em và giật mình biết em bị suy tim nặng, bị suy dinh dưỡng trầm trọng, em thở một cách mệt nhọc, da tái xanh, mắt thẫn thờ, ngồi bất động, co rúm lại như một em bé năm sáu tuổi trên chiếc ghế đẩu bằng nhựa, không nghe và không trả lời được một câu hỏi nào của tôi.
Tôi đưa tay đụng vào chiếc máy ảnh tôi để sẵn trên bàn, định bụng thu vào ống kiếng hình ảnh tiều tụy của em nhưng trong vài giây suy nghĩ tôi quyết định đặt chiếc máy ảnh lại chỗ cũ. Tôi không nỡ. Tôi không muốn nhiều người sẽ nhìn thấy hình ảnh em và sẽ mủi lòng. Tôi đã thấy, đã xót xa. Thế cũng là quá nhiều cho em rồi.

Mẹ em cho biết bà có đưa em đi bệnh viện mấy lần nhưng bệnh em vẫn ngày càng nặng, trọng lượng cơ thể thì ngày càng nhẹ đi, thân thể co rút lại. Hai bác sĩ ngồi cạnh tôi cũng không nghĩ ra được em bị hội chứng gì. Tôi đoán em bị bệnh tim bẩm sinh, không được chữa trị kịp thời nên sinh ra đủ thứ biến chứng như suy tim phổi, thiếu dinh dưỡng trầm trọng, còm cõi, gãy xương…

Cô Mộng Hằng, chuyên viên phòng thí nghiệm, giúp tôi thử máu cho em. Cô mở to mắt ngạc nhiên khi nhìn thấy kết quả hemoglobin của em chỉ có 3.0, bình thường phải là trên 10.0, có nghĩa là em đang bị thiếu máu trầm trọng. Bản thân tôi, tôi đã thấy hemoglobin ở mức thấp 6.0 nhưng chưa bao giờ thấy 3.0 như hôm nay. Tôi vội vã giải thích cho bà mẹ em bệnh nhân và khuyên bà đưa em đi nhập viện ở Quy Nhơn gấp kẻo em không thể sống sót trong những ngày tới rất gần. Bà ứa nước mắt cầm tờ giấy giới thiệu của tôi và giấy lãnh thuốc bổ cho em. Tôi dặn bà những viên thuốc bổ tôi cho hôm nay sẽ không giúp gì cho em nếu bà không đưa em đi nhập viện ngay.

Bà mẹ bệnh nhân bồng đứa con 14 tuổi bước đi chệnh choạng không phải vì sức nặng của cơ thể em mà vì sự đau thương nơi lòng bà. Tôi ngồi thừ người mấy phút nghĩ đến nỗi gian nan vô vàn của một bà mẹ quê 14 năm trường săn sóc đứa con trai duy nhất, mang nặng đẻ đau, bệnh tật triền miên. Đêm đêm bà đã chắp tay cầu nguyện cho con sống còn. Tôi không thể hiểu được làm sao bản thân bà có đủ cơm hẩm, canh rau mà sống qua ngày, lo săn sóc đứa con bất hạnh, bệnh tật. Rồi đây tiền đâu để bà đi xe về Quy Nhơn, tiền đâu để bà mua thuốc và thực phẩm cho con cho đến ngày em đi qua một thế giới khác có thể có được một đời sống thanh thản, khỏe mạnh hơn cuộc sống khổ đau nơi cõi ta bà nầy…

Tôi đứng lên, bước ra khỏi phòng khám, đi bộ trong hành lang bệnh xá và nhìn những bệnh nhân đang ngồi chờ được khám bệnh. Có những khuôn mặt thật chất phát, hiền lành, thân thương. Có những hàm răng đen, những chiếc nón rách, những đôi mắt lo âu pha lẫn chút vui mừng được khám bệnh, được nhận quà… Có năm ba em bé trai gái tuổi học trò tiểu học, chụm đầu vào nhau, cười thật tươi cho tôi chụp hình vừa đưa cao hai ngón tay hình chữ V. Tôi cũng chưa hiểu rõ chữ V có ý nghĩa gì ở đây, vùng đất nghèo xơ nghèo xác: chào mừng, hồ hởi, vui vẻ, thành công?

Trên cao, mặt trời sau cơn bão đã trở lại chiếu xuống trần thế những tia nắng chói chang, mây trắng vẫn lững lờ bay. Ngoài kia, mấy con bò vẫn thản nhiên gặm cỏ. Xa xa có tiếng gà gáy trưa. Không khí nơi đây thật nóng và ẩm. Áo tôi đã thấm ướt mồ hôi. Tôi cố gạt ra khỏi trí hình ảnh em bé và bà mẹ quê, quay trở lại phòng khám để nhận một bệnh nhân khác.
Bà bệnh nhân tuổi khoảng 60, răng đen, nhai trầu bỏm bẻm, thường cười thật tươi sau khi trả lời rành rẽ những câu hỏi của tôi. Bà bị chứng huyết áp cao. Tôi cho bà biết định bệnh, giải thích cho bà lý do tại sao bà bị chứng nầy, viết thuốc cho bà. Tôi nói:
– Chị Bảy nè, ngoài thuốc tôi biên toa hôm nay, tôi muốn chị ăn lạt nghe.
Bà cười:
– Ăn chay hã?
Tôi nói:
– Ăn lạt là ăn bớt mặn đi, không phải ăn chay. Chị càng ăn mặn, ăn muối thì huyết áp chị càng lên cao, có thể làm chị bị tai biến mạch não.
– Tai biên la sao?
– Tai biến là đứt mạch máu trong não, rồi bị liệt, tay chân không cục cựa được, đi đứng không được, nuốt không được, nói không được…
– Dẫy na?
Tôi dặn tiếp:
– Chị phải tránh ăn mắm. Xì dầu, nước mắm chị phải pha thật lạt để chấm rau, chấm bánh tráng…
Bà chị bệnh nhân lại nghiêng đầu cười tươi, chiếc vòng đeo cổ lấp lánh:
– Tránh ăn măm thi ăn gi, nhà chỉ co măm thoi mà.
Tôi giật mình. Thì ra tôi đã xa rời thực tế. Tôi đã bài bản qua lời khuyên bệnh nhân. Câu nói của bà chị làm tôi bế tắc trong suy tư, chẳng biết phải khuyên bà sao nữa về việc tránh ăn mặn để giảm huyết áp. Có thứ mắm nào ở Bình Định mà không mặn đâu. Ba tôi cũng đã từng bị mắm nêm làm ngã gục, đau khổ 4 năm trên giường bệnh rồi mới qua đời. Tôi chợt nhớ đã đọc đâu đó câu nói “Mỗi bệnh nhân là một người thầy của bác sĩ”.
Một bệnh nhân khác của tôi là một đàn ông da sạm nắng, trông còn khỏe mạnh. Tôi liếc nơi ghi tuổi của bệnh nhân. Tình cờ tôi thấy tuổi anh bằng tuổi tôi. Anh trông già hơn tuổi nhiều. Tôi mỉm cười, đùa với anh:
– Anh Ba nầy, anh với tui cùng tuổi mà trông anh trẻ hơn tui nhiều.
Anh bệnh nhân cười bẽn lẽn:
– Đâu co. Tui già nhiêu chơ. Pac xi còn trẻ nhiêu chơ…
– Anh còn đi làm không?
– Gia rôi ma đi làm gi.
Anh lại cười. Tôi hỏi thêm:
– Hồi xưa anh có làm nông, làm rẫy không?
– Hôi xưa tôi đi lính Mỹ.
Tôi bị bất ngờ:
– Anh nói lính Mỹ hay lính Cộng Hòa?
– Lính Mỹ. Biệt kích đó mà.
Tôi im lặng vài giây, ngắm nghía kỹ người đàn ông người sắc tộc. Tôi biết anh không nói đùa. Đôi mắt anh mống thịt đã kéo ngang tròng trắng nhưng tròng đen và con ngươi còn rất lanh lợi. Tôi nói thầm, “Chào anh, người bạn súng gươm ngày nào. Rất hân hạnh được khám bệnh cho anh hôm nay…”


Chào anh, người bạn súng gươm năm nào! Hello comrade of the past!

Tôi khám bệnh cho anh xong tôi xin phép được chụp hình anh. Anh vui vẻ cho phép, nhìn thẳng vào ống kiếng của tôi. Một chút xao xuyến dâng lên trong lòng tôi. Hơn 30 năm sau khi chiến tranh chấm dứt, tôi trở lại quê nhà, khám bệnh cho một cựu quân nhân. Tôi chữa bệnh huyết áp cao cho anh và dặn dò anh nhiều thứ. Tôi muốn hỏi anh nhiều câu hỏi nữa về đời sống của anh sau chiến tranh nhưng tôi lại im lặng. Nhiều bệnh nhân đang chờ được khám. Tôi khuyên anh lần chót sau khi dùng hết một tháng thuốc mà đoàn chúng tôi cung cấp, anh đến bệnh viện huyện xin được chữa trị tiếp hay nếu anh tìm được ít tiền thì dùng cái toa cũ tôi viết đi mua thêm thuốc vì tôi biết bệnh viện ở đây không cấp thuốc miễn phí cho bệnh nhân. Anh bệnh nhân người sắc tộc bắt tay tôi từ giả với nụ cười tươi. Anh là bệnh nhân duy nhất bắt tay tôi trong bảy ngày tôi và đoàn của tôi khám bệnh ở Bình Định. Mối thân tình như còn vương vất đâu đây…

Đoàn của tôi có một số bác sĩ chuyên khoa nội thương, chỉ khám bệnh người lớn. Tôi và vài bác sĩ nữa chuyên khoa gia đình nên khám cả trẻ em lẫn người lớn, người già, đàn bà lẫn đàn ông.
Một bà mẹ trẻ đưa một em bé gái vào khám. Em trông khỏe mạnh. Khuôn mặt thật dễ thương. Tôi hỏi:
– Em tên gì, bao nhiêu tuổi?
Em bé trả lời thật đúng giọng tiếng Việt:
– Em tên là Mai, em 9 tuổi.
– Em đau bệnh gì nói cho bác sĩ nghe đi.
Em bé liếc nhanh mẹ rồi đáp:
– Em bị đau đàu, đau bụng.
Em đưa tay chỉ nơi rốn. Tôi hỏi:
– Em còn đau gì nữa không?
Em bé quay nhìn mẹ dò hỏi. Bà mẹ trẻ nhắc:
– Con kể hết cho bác sĩ nghe đi!
Em bé, hai tay sờ hai đầu gối nói như đọc bài thuộc lòng:
– Em bị sưng hai đàu gối, đêm nào cũng đau nhức ngủ không được…
Tôi sờ hai gối em:
– Em đau và sưng hai đầu gối. Vậy lúc đi học ở trường, em chạy chơi với bạn bè được không?
Em bé ngây thơ đáp nhanh:
– Dạ được.
– Em có bà nội hay bà ngoại ở nhà cũng đau đầu gối như em không?
– Dạ có.
Em bé đáp nhanh và tự nhiên. Tôi khám em xong biên toa cho em nhiều thuôc bổ như tôi vẫn cho bất cứ em nào tôi khám dù bệnh hay không bệnh. Tôi cũng biên thuốc giảm đau, giảm sưng và dặn bà mẹ trẻ cách dùng cho cả người lớn và trẻ em.

Một nữ bệnh nhân khác tóc bạc phơ ngồi vào ghế bệnh nhân. Tôi chào bà:
– Chào cụ Năm! Cụ đau sao cụ nói tui nghe.
Bà cụ thảng thốt:
– Trời đất quơi! Sao ông nói được tiếng Diệt?
Bà cụ vừa hỏi vừa đưa hai bàn tay nhăn nheo cầm lấy một bàn tay tôi.
– Ông học tiếng Diệt hầu nào dậy?
Thì ra bà cụ tưởng lầm tôi là bác sĩ người gốc Mỹ. Tôi thấy vui vui, tính trêu bà và định nói, “Dạ, tôi học tiếng Diệt từ lúc được hai ba tuổi” nhưng tôi kịp thời dừng lại, thấy thất lễ với bà nếu đùa như vậy. Tôi đổi câu trả lời:
– Thưa cụ, tôi là người Việt. Tôi là dân Bình Định, dân Tây Sơn, cụ biết Tây Sơn ở đâu không?
Bà cụ còn đang suy nghĩ thì người con gái đi cùng đã trả lời thay:
– Tây Sơn là Phú Phong đó mẹ.
Cô quay sang tôi:
– Mẹ thấy bác sĩ dáng cao, da trắng nên tưởng bác sĩ là người Mỹ.
Tôi mỉm cười:
– Không sao cô. Thật ra tôi cũng là người Mỹ gốc Việt. Đoàn chúng tôi có 60 người từ bên Mỹ về và mấy chục bạn bè ở Việt Nam đi kèm giúp đỡ.
Tôi ngồi ngắm làn da nhăn nheo trên tay, trên mặt bà cụ. Sống mũi bà cao, giọng nói vui vẻ, dễ dãi, đầu tóc được cạo ngắn gọn gàng, chiếc áo bà ba gài nút bóp. Rõ ràng đây là hình ảnh của bà nội tôi trước năm 1975. Bà nội tôi qua đời khi tôi đang ở trên biên giới Việt-Miên vào năm 1976. Em tôi kể bà nuối tôi rất lâu trước khi ra đi. Đêm ấy, trên rừng, tôi vật vã không ngủ được. Ruột gan nóng như lửa đốt.

Tôi biên toa trị chứng huyết áp cao cho bà cụ nhưng vẫn băn khoăn không không biết khi bà dùng hết một tháng thuốc mà đoàn chúng tôi cung cấp, tương lai bệnh tật của bà sẽ ra sao. Bệnh xá huyện, tỉnh có tiếp tục giúp bà có đủ thuốc để chữa trị không? Các con bà quá nghèo làm sao có tiền để mua thuốc cho bà.
Tôi xin chụp hình bà cụ. Bà ngồi ngay ngắn đợi tôi bấm máy xong mới tươi cười:
– Cảm ơn quý ông dìa đây khám bệnh cho bà con.
Lời cảm ơn chân thành thốt ra từ miệng bà cụ làm tôi chợt xúc động. Đáng lý tôi phải cảm ơn những bệnh nhân thân yêu đã mang lại cho tôi niềm vui rạt rào được săn sóc họ, nơi nầy, trên quê tôi Bình Định.

Hôm qua, trong phòng ăn của khách sạn Quy Nhơn, một nữ bác sĩ Việt Nam trẻ từ Mỹ về, đã tâm sự với tôi, “Em ra trường y khoa thì vừa lúc chạy loạn, chưa có cơ hội phục vụ bệnh nhân ở quê nhà, nay được về làm việc chung với quý anh chị, được tận tay săn sóc đồng bào mình, em thấy như giấc mơ của em đang trở thành sự thật…” Lời tâm sự của người đồng nghiệp trẻ nhẹ nhàng lọt vào tai tôi, chạy thẳng xuống tim. Tôi ngưng nhai, ngưng nuốt đến mươi giây. Thì ra không phải chỉ có tôi mơ ước như vậy thôi.
– Anh may mắn hơn em. Anh đã có được năm năm để săn sóc bệnh nhân và binh sĩ trước trước khi lên rừng đốn gỗ, trồng khoai… Cho tới cuối năm 1978 anh mới ra đi trên chiếc thuyền con…

Chúng tôi biết, đoàn thiện nguyện y tế chúng tôi về đây lần nầy cũng chỉ như một cơn mưa rào trên sa mạc khô cằn, cháy bỏng lâu ngày, không đủ để cho hạt bông cỏ nẩy mầm chứ đừng nói đơm bông kết trái.

Ngày 11 tháng 11 năm 2009

Hôm qua, 10 tháng 11, chúng tôi khám bệnh, phát thuốc và cứu trợ ở xã Canh Hiệp, huyện Vân Canh. Buổi trưa, khi chúng tôi nghỉ để ăn trưa thì một số bệnh nhân chưa được khám cũng trở về nhà ăn trưa. Không biết bệnh nhân dùng phương tiện gì để di chuyển mà trong buổi xế và buổi chiếu nhiều bệnh nhân không trở lại để được khám bệnh. Tới giờ chúng tôi phải ra về, trưởng đoàn quyết định dồn số bệnh nhân đó vào ngày hôm sau.

Trong cơn bão lụt, năm bảy gia đình đồng bào sắc tộc có thân nhân đã bị nước cuốn trôi thiệt mạng. Đoàn chúng tôi đã cử đại diện đến tận nhà các nạn nhân thăm viếng và ủy lạo.
Buổi chiều trên đường về, một trong hai xe buýt lớn chở hơn 60 người chúng tôi thình lình hục hặc rồi dừng lại giữa đường khi trời xẩm tối. Mọi người ngạc nhiên khi biết xe hết xăng. Thế là hành khách phải xuống xe cho đỡ bị nóng và chờ cho tài xế đi mua xăng. Một bác sĩ Mỹ, bác sĩ D. lại được dịp khám bệnh cho một em bé đang bị bệnh khi ông ghé lại một căn nhà bên đường. Một bạn trẻ nói đùa, “Phòng mạch bác sĩ D. chắc đông khách lắm.” Chiếc xe buýt kia chưa hết xăng tiếp tục chạy về Quy Nhơn trước để một số đoàn viên có đủ thì giờ đi dự đám cưới của bạn hữu, cư dân Quy Nhơn.

Rút kinh nghiệm ngày 10, qua ngày 11 chúng tôi đãi những bệnh nhân chưa được khám trong buổi sáng ăn cơm trưa để họ không phải đi về nhà.

Phòng nha khoa có nữ nha sĩ H.G. trẻ đẹp từ Sài Gòn tham gia đoàn. Cô mang theo đầy đủ dụng cụ kể cả máy hấp để cung cấp dịch vụ nha khoa cho đồng bào. Cô và 4-5 phụ tá làm việc hăng say. Khách của cô phần đông là trẻ em. Trong 5 phút nghỉ giải lao tôi ghé lại xem cô làm việc. Có mấy em khi nghe nói sẽ được khám răng hay nhổ răng thì sợ hãi khóc thét nhưng khi nghe cô nha sĩ dỗ dành thì yên lặng ngay. Tôi ngạc nhiên lắm, xách máy ảnh ra làm phóng viên. Chẳng hiểu cô nha sĩ nói gì mà một em bé gái vừa dãy dụa ôm mẹ khóc thét giờ lại ngồi yên, dựa đầu vào tường, gồng mình cho chiếc kim dài chích vào lợi rồi chiếc kềm quay quay qua lại trong miệng kẹp mấy chiếc răng hư kéo ra. Thì ra, sau khi được nhổ răng, các em được cô phụ tá dạy cho cách đánh răng xong được lựa quà là đồ chơi đủ loại và kẹo bánh. Một em bé trai mừng vui, âu yếm áp món đồ chơi là một chú rô bô bằng nhựa vào má mình. Tôi lại gần làm bộ xin chú rô bô, mặt em bé xìu buồn ngay nhưng em cũng gượng gạo cho tôi món đồ chơi mà chắc chưa bao giờ em có được nơi một thôn xóm xa xôi và nghèo xơ nghèo xác nầy. Khi tôi trả lại chú rô bô cho em bé, mắt em sáng lên mừng rỡ.

Tôi hỏi cô nha sĩ ngày nay nhổ được bao nhiêu cái răng. Cô mỉm cười đáp, “Mới có 49 cái thôi anh”. Nếu ở Mỹ thì sáng nay nha sĩ HG đã thu được 10 ngàn đô la công nhổ 49 chiếc răng. Sau giờ ăn trưa, trong khi chờ bệnh nhân trở lại, cô nha sĩ ngồi rút chân lên ghế, nghiêng đầu, nhắm mắt nghỉ ngơi. Tôi chụp được tấm hình hiếm có và dễ thương đó. Giờ nghỉ trưa, các bác sĩ từ Mỹ về, đã quen không ngủ trưa nên trông tỉnh táo, ngồi chuyện trò. Các đoàn viên ở Việt Nam, có lẽ quen giấc nghỉ trưa, tìm chỗ nằm ngồi, thả hồn về lại Sài Gòn năm mười phút.

Bác sĩ P. người Mỹ, chuyên khoa mắt (ophthalmologist) về hưu ở tuổi 50, quá sớm ở Mỹ. Hiện ông và vợ ông, một chuyên viên về Tâm Lý (psychologist) đang để dành nhiều thì giờ làm thiện nguyện. Tôi giới thiệu cho ông mấy bệnh nhân trẻ bị bệnh mắt. Ông khám thật kỹ và đi tìm tôi giải thích và cố vấn tôi từng chi tiết trị liệu khi tôi đang dùng cơm trưa. Khám bệnh cho dân ở đây tôi thấy có rất nhiều bệnh nhân già lẫn trẻ bị bệnh mắt. Tôi cứ mơ ước sao mỗi năm có được những bác sĩ chuyên khoa tai mắt mũi họng về đây khám bệnh và chữa trị cho đồng bào.

Tưởng cũng nên nói ra đây một chuyện liên quan đến chuyên khoa mắt. Một bác sĩ chuyên khoa mắt người Việt từ Mỹ về để sẽ giải phẩu 30 trường hợp mắt lệch cho trẻ em VN tại bệnh viện Quy Nhơn theo giao ước giữa đoàn thiện nguyện và bệnh viện Đa Khoa Quy Nhơn. Bệnh viện hứa sẽ chia một phần nhỏ phí tổn hậu giải phẩu sau khi bệnh nhân được mổ xong. Vậy mà, sau 4 ca mổ thành công tốt đẹp, bệnh viện không chịu tiếp tục chia phần phí tổn đó như đã hứa. Được hỏi lý do, bệnh viện cho rằng mỗ chữa mắt lệch cho trẻ em là một thứ giải phẩu thẩm mỹ. Bác sĩ thiện nguyện thì bỏ công ăn việc làm ở Mỹ về Quy Nhơn làm không công. Chúng tôi, ai nghe bệnh viện từ chối giúp đỡ bệnh nhân trẻ em tránh được mù lòa, cũng đều hết sức ngạc nhiên thở dài thất vọng.

Đêm 12 tháng 11, nhìn những em bé bị bệnh mắt lệch mà đoàn đưa từ Vân Canh về Quy Nhơn để được giải phẩu phải trở về nhà và sẽ có thể mang tật suốt đời, ngay cả mù lòa, ai cũng đau lòng. Ôi, tiếng than có thấu trời xanh? Ai sẽ là người sẽ cứu giúp những trẻ bất hạnh bị bệnh mắt lệch nầy đây?
Ngày mai, 13 tháng 11, đoàn sẽ về Gò Bồi thay vì xã Mỹ Thọ, huyện Phù Mỹ như trong lịch trình dự định từ trước. Ba ngày làm việc với dân chúng Bình Định, tôi thấy mỗi thành viên đều hăng hái, vui cười, hoan hỉ. Chưa thấy ai tỏ ra thấm mệt.

Ngày 12 tháng 11 năm 2009

Trụ sở xã Gò Bồi (?) tọa lạc ngay đường đi. Khi chúng tôi đến nơi thì dân chúng đã tụ tập khá đông. Vừa bước xuống xe buýt, tôi chạm mặt với một bà mẹ trẻ, một tay bồng, một tay dắt hai đứa con gái mặt mày thật dễ thương. Tôi béo nhẹ má em bé 4-5 tuổi. Em bé mỉm cười nhìn tôi. Bà mẹ trẻ nhắc con, “Con chào bác sĩ đi con!”. Em bé nghe lời mẹ, nói nhỏ nhẹ đủ nghe, “Chào bác xỉ” Tôi tiếc là không mang theo viên kẹo nào trong túi.

Nơi nào tôi đến tôi cũng gặp được những em bé dễ thương như các cháu ngoại của tôi. Tôi đi xa mấy hôm mà đêm nào cũng được nghe giọng cháu ngoại gọi từ Mỹ kêu “ông ngoại” và hát cho tôi nghe. Đứa cháu 6 tuổi hát,
“Cô cô cồ, nghe gà gáy sáng. Cô cô cô, hỡi ông dậy nào. Cô cô cồ, ánh hồng đã lên. Cô cô cồ hỡi ông dậy nào… Kìa xem chung quanh ta bao trẻ già dậy xôn xao, chào đón ánh hồng tươi, vui bước đường cần lao. Cô cô cồ mau mà thức giấc. Cô cô cô ngủ mê chi hoài. Cô cô cồ bước đường đừng thua. Cô cô cồ chúng chê bạn cười…”

Nhân nói về tiếng gà gáy, tôi nhớ một buổi sáng trong ngày thứ nhì chúng tôi ngụ tại khách sạn Quy Nhơn, tôi hỏi một cô sinh viên con của một bạn tôi trong đoàn thiện nguyện có ngủ được không. Cô bé trả lời, “Dạ con không ngủ được, bởi vì mấy con gà trống chung quanh khách sạn gáy to quá và gáy xuốt đêm…” Cô bé nói giọng Bắc vì có cha người Bình Định mẹ người Bắc. Tôi và bác sĩ N. cùng phòng đều bật cười. Chính tôi, trong những lần về VN đầu tiên, ngủ ở Quy Nhơn đã bị tiếng gà gáy và tiếng chó sủa làm mất ngủ. Chưa hết, mới 4 giờ rưỡi sáng, tiếng loa của phường đã oang oang đánh thức dân chúng dậy tập thể dục. Hồi đó tôi đã bất giác than, “Trời ơi, giữ gìn sức khỏe của dân chúng bằng cách nầy đây sao?”. Tôi bèn nói với cô bé thiện nguyện, “Cháu có biết gà cồ Quy Nhơn gáy sao không? Cô cô cồ, hãy mau vào giường, cô cô cô xin đừng thức khuya, cô cô cồ có tui canh chừng…” Cô bé cười rồi ngáp dài.
Sáng nay, tại GB, trong khi chờ đợi bắt tay vào làm việc, tôi xách máy ảnh đi chụp đám đông. Có quá nhiều khuôn mặt thân thương để chụp, trẻ em, người lớn. Tôi thích nhất là chụp những chiếc nón lá rách te tua, che những khuôn mặt cụ già da nhăn nheo. Những đôi mắt trẻ thơ trong sáng, rụt rè cũng thật dễ thương.

Vừa chụp hình tôi nghe tiếng loa của anh phụ tá đoàn trưởng nói thật lớn, lớn lắm, “Ông xã trưởng đâu? Sao phiếu khám bệnh của con nít mà đem phát cho người lớn? Làm sao chúng tôi làm việc được? ” Có lẽ anh đang giận ông xã trưởng. Tôi ước gì tôi đứng gần anh để nhắc anh nói nhỏ và dịu dàng hơn. Đây không phải lỗi của các ông cụ bà cụ đang ngồi trên băng ghế một cách trật tự chờ khám bệnh. Chỉ cần nhìn qua những khuôn mặt già nua, khắc khổ, những mái tóc trắng phau, những đôi mắt lem nhem, những hàm răng thưa thớt, những bộ bà ba cũ kỹ đó cũng đã thấy đủ để thương rồi. Tôi tự dưng thấy xốn xang nơi lòng. Nếu tôi là anh tôi sẽ nói cách khác, dịu dàng hơn để không làm buồn lòng những người dân quê mộc mạc, chân thành, mò mẫm đường xa đến chờ được săn sóc. Tôi không biết những cụ già đang ngồi đó sẽ nghĩ gì khi phải ra về, không được khám bệnh, không có một viên thuốc. Chắc chắn họ sẽ buồn. Nếu mà trong ngày hôm nay tôi phải khám thêm năm mười cụ già nữa tôi cũng không thấy bị phiền hà mà còn lấy làm vui. Tôi xách máy ảnh đi xa tiếng loa, vào phòng khám bệnh.

Một ngày nữa giao tiếp với đồng bào quê tôi. Tôi ước sao bản thân tôi và đoàn của tôi có đủ thời giờ, thuốc men, kiên nhẫn để kéo dài “trận mưa rào” ra cả tháng trên “sa mạc” Bình Định thiếu nước đã lâu. Chừng nào sẽ có một đoàn thiện nguyện khác sẽ về đây? Một năm, hai năm , năm năm? Thời gian có đợi chờ ai, kể cả những người nghèo khó, bệnh tật chờ được săn sóc. Đêm nay, ngối viết những dòng nầy mà nước mắt còn muốn ứa ra. Bạn có cho rằng tôi ủy mị tôi cũng không giận bạn đâu. Tôi chỉ biết tôi đang thương, đang nhớ những người dân quê tôi.

Về đây để thấy, để thương
Để thôi xa cách quê hương xa vời
Về đây nhìn những mảnh đời
Ốm đau không thuốc, tả tơi áo quần
Về đây để biết bâng khuâng
Để tim đau thắt, để lòng xót xa
Về đây nhìn lại quê cha
Trẻ thơ còm cõi, mẹ già héo khô
Ai đi xa biệt bến bờ
Xin đừng ngoảnh mặt, làm ngơ cho đành…

Ngày 13 tháng 11 năm 2009

Sáng thứ sáu ngày 13 tháng 11, chúng tôi đi xã Cát Hải, huyện Phú Cát. Xe băng ngang trên chiếc cầu dài Nhơn Hội lúc sương mù còn che kín mặt biển nên dự định chụp hình trên chiếc cầu được đoàn trưởng quyết định hoãn lại đến chiều. Xe chạy dọc theo con lộ nhỏ dọc bờ biển. Có đoạn đường xe bị lún sình không tiến lui được. Người trên xe phải xuống đi bộ một khoảng để xe nhẹ vượt ra khỏi lầy. Đoàn dừng lại chụp hình phong cảnh nơi một đụn cát. Những nhà dân ở dọc đường còn bị nước ngập tận nền và cả vườn.

Trụ sở xã Cát Hải nằm gần bờ biển, dựa lưng vào núi. Từ trên cao chúng tôi nhìn thấy biển xanh trải dài thật đẹp. Dân cư ở đây thưa thớt hơn, số người đến khám bệnh cũng ít hơn những nơi khác mà chúng tôi đã đi qua.

Sáng sớm, bác sĩ C. người Mỹ, một mình đã chạy ra tắm biển thật nhanh.
Buổi trưa đoàn được ăn trưa trên lầu hai. Tôi để ý thấy món canh bí rợ nấu thịt heo nạt được nhiều người chiếu cố. Cuối bữa ăn, bí rợ biến mất, thịt nạt còn nằm lại như những cục súc sắc trong tô. Món tráng miệng có bánh cốm chiên, bánh ít lá gai.

Xong việc sớm sơn các ngày trước, bác sĩ C rủ tôi:
– Đi tắm biển không Hiếu?”
Tôi đáp:
– Tôi thích lắm nhưng quên mang theo quần tắm.
– Đừng lo! Tôi có đem theo 2 chiếc. Tôi cho bạn mượn một.
Tôi chấp nhận đề nghị của bác sĩ C và hai chúng tôi leo lên xe ra biển. Bãi biển lài, rộng, cát trắng và sạch. Tôi và bác sĩ C thay nhanh đồ tắm và nhào xuống nước. Ôi, khoan khoái vô cùng sau một ngày làm việc nóng nực. Nước biển mát rượi. Sóng nhỏ. Chúng tôi bơi thõa thích dọc theo bờ. Đám tép bơi gần bờ bị chúng tôi tấn công thình lình đã nhảy tung lên mặt nước từng đám thật đẹp mắt. Bác sĩ C. ngạc nhiên vì lần đầu ông bơi biển mà gặp tép.

Hai nữ bác sĩ VN thấy chúng tôi vùng vẫy trong nước cũng mặc nguyên bộ quần áo scrub xuống nước. Bác sĩ C. nằm ngửa trên nước, giơ một chân lên thẳng góc 90 độ cho bác sĩ N chụp hình. Ông làm như các nữ lực sĩ múa nước đồng điệu trong thế vận hội. Bác sĩ C. tóc bạc nhưng tuổi chưa đầy 60. Ông bơi khá giỏi. Tắm được khoảng nửa giờ chúng tôi ra khỏi nước mượn xe đạp của trẻ em đạp trên bãi chụp hình. Cô MH chuyên viên phòng thí nghiệm ra biển trễ cũng gắng xuống ngâm cho ướt người với nước biển.

Những bác sĩ không mang theo quần áo tắm thì rủ nhau đi chụp hình trên những mỏm đá hay trong các ghe thúng. Khi mặt sắp lặn sau dãy núi sau lưng trụ sở xã Cát Hải thì chúng tôi lên xe ra về, quần còn ướt sũng nước biển. Tôi và bác sĩ C. vui vì đã không bỏ lỡ cơ hội tắm biển.

Tối 13 tháng 11, đoàn chúng tôi và nhiều cựu học sinh hai trường Cường Để và Nữ Trung Học Quy Nhơn họp nhau lại ở quán Thu Sa để chia tay những đoàn viên đến từ Quy Nhơn và Sài Gòn giúp đỡ doàn. Buổi ăn tối ở quán Thu Sa có đặc sản Bình Định. Nhiều bạn đã tham gia hát hò, khiêu vũ. Bác sĩ Thuần trưởng đoàn và nhiều đoàn viên đã tỏ ra là những ca sĩ có hạng. Bác sĩ Nick, người Việt, còn trẻ lên ca bản Riêng Một Góc Trời được cả chục nữ đoàn viên đua nhau tặng hoa. Tôi đã dùng máy ảnh của anh chụp đủ cảnh tặng hoa. Mong sao anh về sẽ cho bạn bè xem hình đêm 13 tháng 11 ở quán Thu Sa.

Ngày 14 tháng 11 năm 2009

Một tuần làm việc qua nhanh và vui nhộn. Sáng sớm thứ bảy ngày 14 tháng 11, chúng tôi ra phi trường Phù Cát bay về lại Sài Gòn. Đêm 14, chúng tôi lại họp nhau ở quán Dual Express ở Sài Gòn để chia tay cả đoàn. Thức ăn Pháp đã làm mọi người nản lòng. Bác sĩ E. người Mỹ, từng làm việc ở Việt Nam 38 năm trước, lấy vợ Việt Nam, nay trở lại giúp đoàn, than, “Tôi thích ăn cơm Việt Nam mà lại được cho ăn bít tết với khoai tây.” Trưởng đoàn phát bằng tưởng lệ cho những đoàn viên có công. Đoàn viên tặng quà cho nhau. Ngày mai, người ra về, kẻ đi ra Bắc tiếp tục chương trình nghiên cứu về y khoa, bệnh tật.


Tre già măng non

Cá nhân tôi, sau một tuần làm việc nghĩa, thấy lòng tràn ngập niềm vui dù biết việc mình làm chỉ như một hạt muối rơi vào biển mặn. Ra đi bớt nhớ thêm thương quê cha còn nhiều khốn khó.

Nguyễn Trác Hiếu

Mời các bạn bấm vào đây để xem thêm hình ảnh

16 BÌNH LUẬN

  1. Lake Louise, Canada
    Căn nhà trên bờ hồ
    Trời nước thật nên thơ
    Về với anh em nhé
    Ngày ngày ta làm thơ…

    Anh đang sống trong mơ

  2. RE: Một Chuyến Về Bình Định
    Anh Hiếu kính mến.
    Dù là đọc lại nhưng cảm giác ngấu nghiến vẫn rất đầy. Có những lúc mỉm cười và cũng có nhiều lúc cảm xúc nghẹn ngào trong cổ. Một chuyến đi cảm động và trìu mến phải không thưa anh. Khi nào sẽ có một chuyến nữa đây Doctor? ( để em đợi đọc hồi ký của anh 🙂 )

    • RE: Một Chuyến Về Bình Định
      Cảm ơn Ngọc Dao đã bỏ nhiều thì giờ đưa khá nhiều những hình ảnh của chuyến đi Bình Định 2009 của anh vào cái link bên dưới bài viết để bạn bè có thể xem thêm công tác của đoàn thiện nguyện.

      Hiện giờ vẫn còn có nhiều đoàn thiện nguyện vẫn tiếp tục thực hiện những chuyến đi nhân đạo tại Việt Nam. Cách đây không lâu, đoàn World Health Ambassador mà anh quen biết, từ Virginia về Phan Thiết và Vĩnh Long giúp chữa trị đồng bào nghèo. Tiếc là anh bận rộn không tham gia được chuyến đi đó. Chị Bạch Yến vẫn thúc giục anh mau tham gia với WHA nầy.

      • RE: Một Chuyến Về Bình Định
        Dạ em vừa làm vừa xem lại những hình ảnh này nên buổi sáng cuối tuần trôi vèo qua nhanh. Em phải cảm ơn anh đã ghi lại nhiều hình ảnh của người BD qua những hình ảnh cảm động này
        (Và coi như em đã “đền” anh chuyện hôm qua trang web xoá mất một đoạn văn dài viết nửa chừng của anh 🙂 )

  3. RE: Một Chuyến Về Bình Định
    Cảm ơn anh Hiếu đã chia xẻ với trang nhà những trang nhật ký hấp dẫn và cảm động! Em đọc một hơi đến hết bài đó thưa Bác sĩ!

    • Gởi Diệu Tâm
      Cảm ơn Diệu Tâm đã đọc bài anh viết. Hy vọng em thích những hình ảnh của chuyến đi khi vào cái link bên dưới bài viết. Chúc em vui mạnh.

  4. một chuyến về Bình Định
    Bác sĩ ơi! đọc hồi ký của anh nghe gần gủi lạ kỳ vì quê ngoại của em ở An Thái có bún song thằn. Nhà mẹ ở gần bên quán Thu Sa..
    Ở quê hương còn nhiều khốn khó, nhất là dân nghèo lâm vào ốm đau, bệnh tật, có những cảnh đời bi đát lắm! làm sao chia sớt được?
    Nếu lòng còn hướng về quê hương nhiều như vậy thì hãy về Bình Định nhiều hơn anh nhé!

    • Gởi Huỳnh Thị Lệ Hoa
      Chẳng lẽ về quê bàn tay không
      Nhìn em mắt lệch tôi đau lòng
      Thấy em sứt môi tôi xót dạ
      Ốm đau không thuốc mẹ chờ mong

      Tôi vẫn muốn làm giọt mưa rào
      Rơi trên quê mẹ khô cằn lâu
      Nhìn nét đau thương trên mặt mẹ
      Lòng tôi thổn thức, tim tôi đau

  5. RE: Một Chuyến Về Bình Định
    Thu Trang không như chị Diệu Tâm…hic… Đọc bài của anh mà phải ngắt nhỏ ra mới hết được.
    TT cũng nói như nhỏ Lệ Hoa vậy đó…mong anh có dịp về quê để được gặp anh, người con xa xứ luôn đau đáu một nỗi buồn thương khi quê nhà còn khốn khó…
    TT rất cảm phục tấm lòng của anh với quê hương anh ạ! TT chúc anh sức khỏe và hạnh phúc.

    • Gởi Thu Trang
      Cảm ơn lời chúc lành của Tê Tê. Anh chị vẫn bình an sau chuyến đi Nga và Bắc Âu, đang chuẩn bị cho vài chuyến đi năm tới 2013. Biết đâu, gió hiền lại không thổi anh chị bay về quê nhà.

      Không riêng gì anh, ai xa xứ lâu cũng đau đáu nhớ thương quê nhà nhất là những người còn đang khốn khó. Chúc cô giáo luôn khỏe để săn sóc đám măng non trên đất mẹ.

  6. RE: Một Chuyến Về Bình Định
    Anh Hiếu mến,
    Em vừa đọc [i]ngấu nghiến, một hơi[/i] như Dao và chị DT, vừa canh chừng sợ …hết . Những chuyện nghề, chuyện đời nhiều trải nghiệm của anh vẫn luôn cuốn hút em. Câu chuyện nhỏ: cô bé học thuộc lòng khai nhiều bệnh và hồn nhiên “lộ tẩy” (ở nhà có bà nội, bà ngoại cũng bệnh như em) để bác sĩ kê đủ các loại thuốc và ân cần chỉ dẫn cách dùng cho…người lớn. Và nhiều câu chuyện nhỏ khác… Thật đáng quý tấm lòng và sự cảm thông của anh đối với những bệnh nhân nghèo.
    Mến chúc anh luôn yêu người, nhiều sức khỏe để còn đi và kể…
    PS: Em rất thích tấm hình Tre già măng non. Dường như có mẫu số chung nào trong hai đôi mắt ấy? Mong măng non sẽ kế tục, thành tre!

    • Gởi Thanh Vân
      Còn gì vui bằng khi mình viết bài mà có người thích đọc ngấu nghiến. Em có thì giờ và thích đọc thì vào nguyentrachieu1.wordpress.com để đọc một số văn thơ anh đã viết. Nhớ để lại lời bình luận.
      Anh vẫn mong những búp măng non ở quê nhà sẽ mọc thẳng, sẽ trở thành rường cột của quê hương Việt Nam yêu dấu.

  7. RE: Một Chuyến Về Bình Định
    Các em,

    Đã 3 năm trôi qua từ khi anh về Bình Định và viết bài nầy. Sau đó có tàu Hải Quân Mỹ ghé Qui Nhơn 2 tuần. Giang Ngọc Tuyết có về chuyến đó.

    Anh đang cố thuyết phục các đoàn Thiện Nguyện trở lại Bình Định. Không biết họ chịu không vì trên khắp đất nước VN nơi nào cũng cần người thiện nguyện nhất là về phương diện y tế.

    Cảm ơn các em đã đọc bài cũ và bình luận ngọt ngào. Anh có liên lạc và gởi cho 2 cô bé trong tấm hình anh chụp chung, cười với 2 cô bé đó.

  8. RE: Một Chuyến Về Bình Định
    Kính anh Hiếu,
    Em đã được đọc bài này 3 năm trước đây, nay đọc lại vẫn thấy xúc động, vẫn thấy rất thích cách viết dung dị mà lôi cuốn của anh.
    Và tiếc ơi là tiếc lần đó đã không thu xếp được để đi cùng đoàn.
    nd

  9. RE: Một Chuyến Về Bình Định
    Cảm ơn Ngọc Dung. Chính anh đọc lại bài viết của mình cũng có lúc cảm động và có lúc mỉm cười một mình, tưởng như ai viết chứ không phải chính mình.

    Anh cũng tiếc lần đó năm 2009 em không xin được phép của phu quân em. Bây giờ em dìa hiu rồi, hồi xuân, trẻ đẹp ra (nói nhỏ kẻo Bạch Nga nghe được) không biết phu quân em còn cấm đoán nữa không?

    Thôi tháng 1 năm 2013 em phượt thử một lần với các bạn trẻ xem có sức mẻ gì không. Nếu anh dụ được các hội từ thiện về lại Bình Định thì anh hú em.

    Cảm ơn Ngọc Dao đã tìm lại được mấy tấm hình để chèn vào bài cho vui mắt.

  10. # RE: Một Chuyến Về Bình Định
    Qua bài viết này mới biết anh quê ở Tây Sơn. Bài viết làm em nhớ thời gian đi dạy tại trường cấp 2 ,cấp 3 Tây Sơn Các lớp học hướng về sông Côn thơ mộng lắm
    Cám ơn anh đã chia xẻ, cho đọc 1 bài viết rất cảm động

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây

Bài Cùng tác Giả